Nguồn gốc loài người – Bảy người nguyên thủy

1. Những bằng chứng khoa học về nguồn gốc loài người 

Con người xuất hiện từ bao giờ ? Câu hỏi đó không phải đến nay mới được đặt ra. Sự quan tâm của con người tới nguồn gốc “xuất thân” của mình được thể hiện qua rất nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích về sự sáng tạo thế giới mà ở bất cứ dân tộc nào cũng có. Thời cổ đại, một số học giả lại cho rằng thoạt đầu con người có hình dáng nửa người nửa động vật. Thời trung đại, giáo lí của các tôn giáo, dưới nhiều hình thức khác nhau, đều giải thích rằng con người do Thượng để sinh ra. 

Đến giữa thế kỉ XVIII, vấn đề về vị trí của con người trong thế giới tự nhiên mới được đặt ra trên nền tảng khoa học thực sự khi Cac Linnày xếp con người vào cùng hệ thống với thế giới động vật. Từ đó, qua nghiên cứu, các nhà khoa học ngày càng nhận thấy cơ thể của người và lớp động vật có vú, đặc biệt là giống vượn hình người hiện đại như Jipbong (Gibbon), Orang Utăng (Orang-Outang), Goril (Gorille), Sanhplngde (Chimpanzé) có rất nhiều nét gần gũi nhau. Những kết quả nghiên cứu của ngành động vật học cao cấp cũng cho thấy, một số động vật có vú cũng mắc một số căn bệnh mà trước kia người ta thường cho rằng chỉ có loài người mới có ; những động vật này cũng chịu thuốc kháng sinh và các loại vắcxin phòng dịch. Khi nghiên cứu quá trình phát triển của bào thai người, ngành phôi thai học đã đi đến kết luận : quá trình hình thành bào thai người là sự “rút ngắn” của hàng triệu năm tiến hóa từ động vật trở thành người.

Sau khi công trình của Đacuyn được công bố năm 1871, nguồn gốc động vật của loài người đã được nhiều ngành, nhiều nhà khoa học tìm kiếm, chứng minh bằng những bằng chứng khoa học, trong đó nổi bật nhất là việc phát hiện những di cốt hóa thạch của loài vượn cổ và người vượn trung gian, cho phép khôi phục lại các mắt xích của quá trình chuyển biến từ vượn thành người. 

Ở chặng đầu của quá trình có một loài vượn cổ hay còn gọi là vượn nhân hình – Hominid, sống ở cuối thế kỉ thứ ba của thời đại Tân sinh, cách ngày nay khoảng hơn 6 triệu năm. Loài vượn nhân hình này đã có thể đứng và đi bằng hai chân, dùng hai chỉ trước để cảm nắm, ăn hoa quả, lá cây, củ và cả động vật nhỏ. Trong quá trình phát triển, loài vượn nhân hình này cũng tiến hóa dần dần, ngày càng gần với người hơn : từ loài vượn Đriopithécus đến Ramapithécus và bước tiến hóa rõ rệt hơn cả là vượn phương Nam – Australopithécus. Di cốt hóa thạch của những loài vượn này đã được tìm thấy ở Đông Phi, Tây Á, Ấn Độ, Trung Quốc và cả ở Lạng Sơn (Việt Nam). 

Loài vượn nhân hình Hominid là tổ tiên chung của loài người và cả các giống vượn hiện đại. Từ Hominid, một nhánh nào đó đã phát triển lên thành người Homo Habilis (người khéo léo). Đó là giai đoạn thứ hai và là bước ngoặt quan trọng trong quá trình tiến hóa. Di cốt của một trong những Homo Habilis đã được hai vợ chồng L.Leakey phát hiện năm 1960 ở thung lũng Onduvai (Tanzania). Thể tích hộp sọ là 650cm và có niên đại khoảng 1.850.000 năm. Năm 1976, Clark Howall công bố những phát hiện mới trong những năm 1967 – 1976 ở thung lũng Ômô (Êtiôpia). Tại đây đã phát hiện những hóa thạch động vật có vú và người Homo Habilis có niên đại khoảng 2.500.000 năm. Đặc biệt, năm 1974, DJohanson đã tìm thấy ở thung lũng Afar (Êtiôpia) một di cốt hóa thạch khá đầy đủ. Đó là một cô gái khoảng 25 – 30 tuổi, được đặt tên là Lucy và “tuổi” của cô được xác định bằng phương pháp Kali Acgông là 3.500.000 năm. Lucy đã thường xuyên ở tư thế đứng thẳng. 

Cũng trong năm 1974, Mary Leakey đã phát hiện ở Lactoli (Tanzania) 42 răng người và một hàm hóa thạch với 9 chiếc răng nguyên vẹn. Niên đại của chúng được xác nhận là khoảng 3.700.000. 

Điều đặc biệt quan trọng là ở một số nơi như ở Ômô và Rudolf (Bắc Kênia), người ta cũng đã tìm thấy những công cụ đá chôn cùng với hóa thạch Homo Habilis. Những phát hiện mới này không những đã đẩy niên đại của sự xuất hiện loài người lên khoảng 3.500.000 đến 4.000.000 năm cách ngày nay, mà còn làm nảy sinh nhiều giả thuyết mới về cái “nói” của loài người và về động lực của quá trình tiến hóa từ vượn thành người. 

Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn của những người Homo Érectus (người đứng thẳng). Địa điểm đầu tiên phát hiện ra loại người vượn này là Trinil ở miền Trung Java (Indonexia). Trong những năm 1891 – 1892, bác sĩ Dubois người Hà Lan đã khai quật được ở đây một răng hàm trên, nắp sọ và một xương đùi. Tới năm 1894, ông công bố chi tiết phát hiện của mình và đặt tên cho nó là Pithécanthropus Érectus. Dựa vào các tài liệu đã công bố, tính đến năm 1986 ở đảo Java đã phát hiện được khoảng 21 mảnh sọ, 5 hàm dưới và 3 hàm trên hóa thạch của Homo Érectus. Dung tích sọ não của người Pithécanthropus đã vào khoảng từ 750 đến 975 cm. Họ đã biết phát ra tiếng nói và biết chế tạo công cụ lao động. 

Một đại diện khác rất nổi tiếng của Homo Érectus là Sinanthropus (người vượn Bắc Kinh) mà hóa thạch răng của nó đã được phát hiện trong những năm 1921 – 1923, ở Chu Khẩu Điểm gần Bắc Kinh. Đến năm 1937, ở khu vực này, người ta đã phát hiện được khoảng 40 cá thể của loài người vượn này và cho tới gần đây vẫn có những phát hiện lẻ tẻ khác nữa. 

Người Sinanthropus có sọ dẹt, trán đốc thoải, u trán nổi rõ, dung tích sọ khá lớn (từ 850 đến 1220 cm). Họ đã biết chế tạo công cụ bằng đá rất thô sơ, biết duy trì và sử dụng lửa tự nhiên. 

Di cốt và mảnh di cốt của người Homo Érectus được tìm thấy ở nhiều nơi khác như Ấn Độ, Kenia v.v… Vào những năm 1964 – 1965, các cán bộ khoa học Việt Nam đã phát hiện được một chiếc răng ở hang Thẩm Hai và 9 chiếc khác ở hang Thẩm Khuyên (Bình Gia, Lạng Sơn). Những chiếc răng này đều có niên đại trung kì Pleistocene và đều là răng của Homo Érectus. 

Đến thời hậu kì Pléistocène đã xuất hiện một dạng người mới, gần với người hiện đại hơn. Di cốt hóa thạch tiêu biểu của dạng người này đã được tìm thấy lần đầu tiên vào năm 1956 ở một thung lũng nước Đức mà giới khoa học gọi là người Neandectan. Thân thể người Neandectan đã rất giống với người hiện đại, thể tích hộp sọ khá lớn – từ 1200 đến 1600cm”. Vì thế, khả năng lao động và ngôn ngữ của họ cũng phát triển hơn ; Di cốt của dạng người Neandectan – cả của người lớn và trẻ con, còn được tìm thấy ở nhiều nơi khác như Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, vùng Trung Á, Trung Quốc v.v… 

Đến khoảng 4 vạn năm trước đây, Người hiện đại hay Người tinh khôn (Homo Sapiens) đã ra đời. Homo Sapiens có cấu tạo cơ thể phát triển như người ngày nay. Các bộ phận cơ thể đã trở nên hoàn thiện, hai bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay, nhất là ngón cái linh hoạt hơn, trán cao, xương hàm nhỏ và không còn nhỏ ra phía trước, não đặc biệt phát triển. Sự xuất hiện Homo Sapiens là bước nhảy vọt thứ hai sau bước nhảy vọt từ vượn thành người Home Habilis. Di cốt của họ đã được tìm thấy ở hầu khắp các lục địa. 

Sự phát hiện các di cốt hóa thạch cùng với công cụ lao động của các dạng người nói trên không những đã cung cấp cho chúng ta những bằng chứng khoa học không thể chối cãi được về nguồn gốc động vật của loài người, mà còn giúp ta thấy rõ cả quá trình hình thành loài người với những niên đại ngày càng được xác định chính xác hơn. 

2. Những động lực thúc đẩy quá trình chuyển biến từ vượn thành người 

Nếu như vấn đề về nguồn gốc động vật của loài người được giới khoa học ngày nay gần như hoàn toàn nhất trí, thì một câu hỏi khác : động lực nào đã thúc đẩy quá trình tiến hóa từ vượn thành người lại là một trong những vấn đề vẫn còn gây nhiều tranh luận. Trước thế kỉ XIX đã có nhiều nhà sinh vật học và triết học muốn giải thích vấn đề nguồn gốc loài người bằng những cứ liệu khoa học và quan niệm duy vật, trong đó có Đacuyn, nhà bác học thiên tài đã thử giải thích quá trình này bằng quy luật chọn lọc tự nhiên. Nhưng Đacuyn mới chỉ xem xét vấn đề trên góc độ của các quy luật sinh vật học ; còn vai trò của các quy luật xã hội thì lại chưa được chủ ý đến. Thiếu sót đó đã được Ph.Enghen bổ sung và trả lời một cách đầy đủ trong một luận văn nổi tiếng “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người”. Trong tác phẩm này, Ph.Enghen đã khẳng định : “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ sinh hoạt loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói : lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người.

Khác với loài vật, con người biết lao động sản xuất cải tạo thiên nhiên. Ngay từ khi thoát thai khỏi loài vượn, con người đã biết chế tạo công cụ sản xuất. “Lao động bắt đầu với việc chế tạo ra công cụ”2). Đó là lao động sáng tạo của con người ; nó khác hoàn toàn với lao động bản năng của động vật. Bất cứ một con vượn nào cũng không thể làm ra được một công cụ sản xuất, dù chỉ là công cụ đá thô sơ nhất. Loài vượn phương Nam mới chỉ biết dùng cành cây và đá để tự vệ trước sự tấn công của các thú dữ mà thôi. Chính trong lao động sáng tạo, cơ thể và tư duy của con người ngày càng hoàn thiện và phát triển. Trải qua hàng triệu năm, hai chỉ trước của con vượn đa dẫn dẫn trở thành hai tay, trung khu ngôn ngữ hình thành ở não thùy trái “Trước là lao động, sau nữa vẫn là lao động và đồng thời với nó là tiếng nói, đó là sự kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc của nó dẫn dẫn biến chuyển thành bộ óc của con người. Cũng chính trong lao động, con người có nhu cầu phải trao đổi, liên kết với nhau. làm nảy sinh những quan hệ giữa người với người”. Từ đó Ph.Enghen khẳng định : “Lao động đã sáng tạo ra xã hội loài người”. 

Cùng với cách giải thích theo quy luật tiến hóa của Đacuyn, quan điểm của Ph.Enghen về vai trò quyết định của lao động trong quá trình chuyển biển từ vượn thành người đã góp phần hoàn thiện học thuyết về động lực của quá trình tiến hóa đó. Song với những phát hiện mới đây về cổ nhân học ở vùng Đông Phi, một số học giả đã đưa ra một giả thuyết mới cho rằng, động lực chính thúc đẩy quá trình chuyển biến từ vượn thành người chỉ có thể là các quy luật sinh vật học trong đó có quy luật di truyền và đột biến.

3. Sự xuất hiện xã hội loài người. Bảy người nguyên thủy 

Dựng lại bức tranh của giai đoạn đầu tiên trong lịch sử phát triển xã hội loài người là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp. Vì không có nguồn sử liệu trực tiếp nói về cuộc sống của con người ở thời đại quá xa xôi này, các nhà khoa học buộc phải dựa vào các tài liệu gián tiếp khác như các tài liệu khảo cổ học và cổ nhân học, dân tộc học và cả các kết quả nghiên cứu về cuộc sống tự nhiên của một số loài động vật cao cấp của các nhà động vật học. Sự phân tích tổng hợp các nguồn tài liệu này sẽ giúp ta hiểu biết khái quát về đời sống kinh tế – xã hội của con người thời nguyên thủy. Nhưng đồng thời, những kiến thức đó đôi khi chỉ là sự phỏng đoán giả thuyết và thậm chí mâu thuẫn nhau hoặc còn nhiều “khoảng trống” mà đến nay vẫn chưa bù đắp được. Chính vì vậy những tri thức lịch sử về giai đoạn này thường gây nên sự tranh luận nhiều nhất trong giới sử học. Ngay khái niệm “bầy người” cũng không phải không có ý kiến bàn cãi. Có người cho rằng dùng thuật ngữ này là “tầm thường hóa”, “sinh học hóa” quá trình phát triển có tính xã hội của xã hội loài người. 

Một số tác giả khác lại coi “bảy người nguyên thủy” là một giai đoạn đặc biệt trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Như thế có nghĩa coi bảy người nguyên thủy đã là tổ chức xã hội của loài người, nhưng đồng thời cũng không bỏ qua trạng thái “trung gian”, “chuyển tiếp” của nó từ bẫy động vật lên một hình thức cao hơn, chặt chẽ hơn của tổ chức xã hội loài người. Niên đại đầu của nó có thể bắt đầu từ khi con người vừa thoát thai khỏi giới động vật, tức là từ khi con người biết lao động và chế tạo công cụ. Các hoạt động lao động của con người rõ ràng không chỉ làm thay đổi hẳn mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, tách hẳn con người khỏi giới động vật, mà còn làm thay đổi cả quan hệ giữa con người với nhau. Chính trong lao động sáng tạo, con người ngày càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm sẵn xuất, tự hoàn thiện chính mình về mặt sinh vật học, đồng thời các quan hệ xã hội của họ cũng dẫn phát triển. Vì thế, đến thời hậu kì đá cũ, khi người Homo Sapiens xuất hiện thì bảy người nguyên thủy cũng dẫn dần tan rã, nhường chỗ cho một tổ chức xã hội chặt chẽ hơn là công xã thị tộc. Như thế, về mặt khảo cổ học, giai đoạn bẫy người nguyên thủy kéo dài suốt từ thời sơ kì đến hết thời trung kì đồ đá cũ, còn về mặt nhân chủng học thì đây là thời kì tồn tại của những dạng người vượn trung gian đang trong quá trình chuyển biến thành người hiện đại. 

Tuy chưa loại bỏ hết dấu tích vượn trên cơ thể mình, nhưng những dạng người tối cổ này đã là người. Họ sống lang thang trong các khu rừng rậm nhiệt đới, ngũ trong hang động, mái đá, hoặc cũng có thể dựng lều bằng các cành cây, xương thủ, sống quây quần theo quan hệ ruột thịt với nhau khoảng vài ba chục người gọi là bảy người nguyên thủy. Do trình độ thấp kém, công cụ thô sơ, lại sống trong điều kiện thiên nhiên hoang dã, người nguyên thủy không thể sống lẻ loi, mà đã biết tập hợp lại với nhau thành từng bầy, cùng lao động, tìm kiếm thức ăn và đấu tranh chống các thú dữ để tự vệ. Nhưng khác với các bẫy động vật chỉ có quan hệ hợp đoàn được hình thành một cách tự nhiên, trong bảy người nguyên thủy đã có quan hệ hợp quân xã hội. Mỗi bảy đều có người đứng đầu, có sự phân công công việc giữa nam và nữ, mọi người đều có nghĩa vụ đi săn bắt, tìm kiếm thức ăn, bảo vệ lẫn nhau và trông nom con cái… Bảy người nguyên thủy là tổ chức xã hội đầu tiên. của loài người. 

Ở thời kì bây người, con người đã biết chế tạo công cụ lao động. Từ chỗ chỉ biết dùng những cành cây, hòn đá nhật được bên đường để làm công cụ, người tối cổ đã biết lấy những viên cuội hay hai hòn đá ghê vào nhau tạo nên một cạnh sắc và vừa tay cầm, gọi là những chiếc rìu tay “vạn năng”. Với những rìu đã đó, người tối cổ dùng để chặt cây, làm vũ khí tự vệ và tấn công các con thú khi săn bắt, dùng để đào bởi cây củ kiếm ăn. Đồng thời họ còn biết dùng cả những mảnh tước tách từ hạch đã, thành những chiếc đao nào gỗ. Những công cụ thô sơ do người tối cổ chế tạo ra được gọi là những công cụ đá cũ sơ kì. 

Vào cuối thời kì bảy người nguyên thủy, loài người đã có một bước tiến lớn lao, một phát minh quan trọng – đó là việc dùng và lấy lửa. Trong buổi bình minh của lịch sử, con người sống không khác động vật là mấy, họ chỉ biết ăn sống nuốt tươi. Dần dần, họ biết giữ lửa tự nhiên và dùng lửa để sunh ấm, để đuổi thú dữ và nướng chín thức ăn. Về sau, con người đã biết tự làm ra lửa bằng cách cọ xát mạnh hai cảnh cây khô hay hai hòn đá lửa. Việc tìm ra lửa bằng cách cọ xát đã đánh dấu một bước nhảy vọt trong lịch sử loài người. PhEnghen viết : “Mặc dầu máy hơi nước đã thực hiện trong thế giới xã hội một cuộc giải phóng vĩ đại, cuộc cách mạng này chưa hoàn thành được một nửa, nhưng điều chắc chắn là tác dụng giải phóng loài người (trên ý nghĩa lịch sử thế giới) của việc lấy lửa bằng cọ xát còn vượt xa máy hơi nước. Vì rằng lửa do cọ xát làm ra khiến con người lần đầu tiên chi phối được lực lượng tự nhiên, và do đó đã tách hẳn con người ra khỏi giới động vật…