Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Anh trong những năm 50 – 60 của thế kỉ XIX

1. Sự phát triển kinh tế trong những năm 50-60 của thế kỉ XIX 

Đến những năm 50-60 của thế kỉ XIX, nên công nghiệp Anh phát triển tới mức độ phồn thịnh, đứng hàng đầu trên thế giới. Các ngành công nghiệp đều tăng tiến với một tốc độ cực kì nhanh chóng. 

Trong hai mươi năm (1830–1870) lượng than khai thác tăng lên ba lần (rút 34 triệu lên 110 triệu lấn), sản xuất gang tăng hơn 4 lần (từ 1,4 triệu lên 6 triệu tấn), chế tạo bông tăng tới 21-23 lần 

Nước Anh trở thành công xưởng của thế giới : năm 1850 sản xuất một nửa sản lượng gang, hơn một nửa than đá, gắn một nửa hàng chế tạo bằng bông của thế giới. 

Nguyên nhân quan trọng làm cho nền kinh tế phát triển mạnh mẹ là cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã hoàn thành sớm trong khi các nước khác chỉ mới bắt đầu hoặc đã tiến hành nhưng còn kém xa. Do đó, nước Anh chiếm địa vị độc quyền trong công nghiệp nặng, có một thị trường tiêu thụ máy móc hàng hóa rộng lớn và thu được nhiều lãi.

Sự tăng tiến nhanh chóng của ngành đường sắt và bước chuyển biến căn bản trong phương tiện vận chuyển đường biển có ảnh hưởng lớn tới sản xuất công nghiệp. Nước Anh đã cung cấp tàu biển cho hầu hết các nước khác, sử dụng rộng rãi tàu chạy bằng hơi nước. Do đó, nó đòi hỏi sự phát triển nhanh chóng ngành luyện kim và cơ khí, tăng cường chuyên chở hàng hóa Anh đi bán khắp nơi và đẩy mạnh việc lưu thông tư bản. Trong 25 năm (1845 – 1870) nước Anh xuất xăng máy móc tăng gấp 10 lần. 

Sự kiện có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế ở Anh còn là việc phát hiện ra mỏ vàng ở Caliphonia Bắc Mĩ (1847) và ở Ôxtrâylia (1851). Phần lớn số vàng khai thác đều rơi vào túi các nhà kinh doanh và ngân hàng Anh, vì khi đó chỉ có nước Anh mới có thể đặt ra vấn đề đổi vàng và có thể chuyên chở nhanh chóng hàng hóa sang để đổi hàng lấy vàng cho hàng chục vạn người đang ùn ăn kéo về Caliphoocnia và Ôxtrâylia. Hàng hóa xuất khẩu từ Anh sang Ôxtrâylia trong mười năm (1852-1861) tăng lên gấp 60 lần so với mười năm trước đó. 

Yêu cầu phát triển nhanh chóng về công nghiệp đòi hỏi quy mô của các xí nghiệp phải thay đổi. Những nhà máy sử dụng hàng nghìn công nhân không còn là hiện tượng hiếm hoi và có những xí nghiệp đông tới hàng vạn người. Nhiều thành phố, bến tàu, cửa biển trở nên sầm uất. 60% dân số Anh sống tập trung trong các thành thị. 

Nhưng ngay trong những ngày phồn vinh nhất của chủ nghĩa tư bản, nước Anh cũng phải trải qua hai cuộc khủng hoảng lớn năm 1857 và năm 1866, gây nên nhiều tổn thất. 

Nền nông nghiệp nước Anh cũng không ngừng phát triển, nhất là từ sau khi thủ tiêu đạo luật về xóa bỏ thuế nhập lúa mì. Trong khoảng 20 năm từ 1850-1870, nông nghiệp Anh bước vào thời kì phồn vinh chưa từng có. Tư bản đầu tư vào nông nghiệp lên tới 1/3 và có khuynh hướng tăng cường ngành chăn nuôi. Khẩu hiệu của các phácmơ khi đó là “gia súc đi đối với lúa mì. 

Trong thời gian này, ngành thương nghiệp của nước Anh cũng rất phát triển. Cùng với việc thủ tiêu luật lúa mì, năm 1846, chính sách tự do buôn bán được tiến hành mạnh mẽ qua việc xóa bỏ phần lớn các thứ thuế xuất nhập khẩu làm cho giá nguyên liệu và lúa mì hạ xuống hàng hóa sản xuất ra đều hạ giá thành. Nam 1849 đạo luật hàng hải được hủy bỏ sau gần hai thế kỉ tồn tại(“). Do đó tàu bè được tự do đi lại buôn bán giữa Anh và các thuộc địa của Anh với các nước khác. Những chính sách đó có lợi cho giai cấp tư sản Anh vì hàng Anh vừa rẻ, vừa tốt, có thể dễ dàng xâm nhập thị trường các nước khác và cản trở nên công nghiệp dân tộc các nước đó. Trong những năm 40-60 của thế kỉ XIX, chính phủ Anh tiếp tục giảm thuế đối với những hàng xuất nhập khẩu và kí kết những hiệp nghị hạ thuế quan với các nước khác, đưa tổng sản lượng xuất nhập khẩu năm 1850-1870 tăng gấp đôi so với trước. Như vậy, chính sách “tự do buôn bán” hầu như chỉ đem lại lợi nhuận một chiều cho giai cấp tư sản Anh vì hàng hóa của các nước khác không thể nào cạnh tranh nổi với hàng Anh. 

Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Anh trong những năm 50-60 của thế kỉ XIX đã đưa nước Anh bước vào thời đại phồn vinh, không những đóng vai trò của một “công xưởng thế giới” mà còn giữ địa vị “bá quyền trên mặt biển. 

2. Chính sách xâm lược thuộc địa 

Sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa đòi hỏi nguyên liệu và thị trường. Văn để thuộc địa trở nên vô cùng cấp thiết. Nam 1866, nước Anh tiến hành cuộc chiến tranh Thuốc phiện lần thứ hai để xâm lược Trung Quốc, buộc triều đình Mãn Thanh phải bồi thường và mở thêm cửa biển buôn bán. Cùng năm đó, quân Anh bắt đầu xâm lược Ba Tư, ép chính quyền địa phương thừa nhận độc quyền của bọn nhà buôn Anh được tự do đi lại trong vịnh Ba Tư. Năm 1863, tàu chiến Anh cùng với các nước khác (Pháp, Hà Lan, Mỹ) bắn phá Kagoshima buộc Nhật phải bồi thường chiến phí và mở rộng cửa biển cho hàng hóa nước ngoài tràn vào. Năm 1867, Anh can thiệp quân sự vào Abixini, cướp phá thủ đô và đòi cho tàu Anh được tự do ra vào nước này. Cũng trong thời gian những năm 30-60, nước Anh đã xâm chiếm Niudilan, chiếm toàn bộ miền Tây Miến Điện, tấn công các bộ lạc ở Nam Phi, đàn áp cuộc khởi nghĩa của nô lệ chống chủ đồn diễn ở Jamaica (1865), tràn vào Ethiopia (1868). 

Thuộc địa lớn và quan trọng nhất của Anh là Ấn Độ. Đến giữa thế kỉ XIX, nước Anh đã hoàn thành cản bản cuộc chiến tranh xâm lược ở Ấn Độ, sáp nhập những vương quốc nhỏ có tính chất địa phương vào lãnh địa chung dưới quyền thống trị của Anh. Nữ hoàng Victoria tự xưng là Nữ vương của Ấn Độ. 

Cùng với việc mở rộng thuộc địa, số người di cư từ Anh sang Canada, Ôxtrâylia, Niu Dilan và Nam Phi ngày càng đông. Đặc biệt là Ôxtrâylia sau khi phát hiện ra mỏ vàng, số người tăng trong khoảng năm 1851-1861 từ 438 nghìn lên 1.145 nghìn người. 

Ailen là thuộc địa sớm nhất và gần gũi nhất của nước Anh. Ruộng đất đều nằm trong tay bọn quý tộc địa chủ Anh, còn người dân Ailen làm tá điển sống trong cảnh cực khổ, đói khát.

Cuộc đấu tranh nổi tiếng của nhân dân Ailen trong thời kì này là phong trào Phênăng, lấy theo tên một vị anh hùng giải phóng thế kỉ XVIII là Phênăng Mac Cun. Đó là một tổ chức bí mật, mang tên chính thức là “Hội đoàn kết những người cách mạng Allen” bao gồm cả công nhân, cố nông dưới sự lãnh đạo của trung và tiểu tư sản. Họ chủ trương thành lập nước cộng hòa Ailen, nhưng dùng biện pháp khủng bố bí mật chứ không dựa vào quần chúng. Chính vì vậy, trong cuộc khởi nghĩa năm 1867, họ bị thất bại nhanh chóng.