Nước Mĩ nửa đầu thế kỉ XIX. Tiền đề của cuộc nội chiến
1. Công cuộc di thực bành trưởng đất đai và chính sách xâm lược của Mỹ
Cách mạng tư sản Mĩ giành được thắng lợi, nước Mĩ nửa công nghiệp, nửa nông nghiệp ra đời. Miến Đông Bắc nước Mĩ chủ yếu là vùng công nghiệp phát triển, miền Nam là vùng nông nghiệp đồn điền, phía tây dãy núi Elegant là vùng đất bao la, khoảng trời rộng lớn của dân di cư. Bằng con đường mua lại đất của Pháp, Tây Ban Nha, dồn đuổi thổ dân da đỏ, nước Mĩ đã bành trướng, lập thêm 14 bang mới. Đến giữa thế kỉ XIX, nước Mĩ đã có 30 bang, diện tích rộng 4,8 triệu kilômét vuông. Dân số Mã ngày càng đông, nguồn di dân từ châu Âu sang ngày càng nhiều. Họ ra đi vì sự bất đồng chính trị, vì nguồn sinh kế, cũng có nơi vì nạn đói như Ailen. Cuộc cách mạng 1848-1849 ở châu Âu thất bại làm cho một số đông nhân dân thất vọng ra đi tìm cuộc sống mới. Việc phát hiện ra mỏ vàng ở Caliphoocnia năm 1848 càng kích thích làn sóng di cư mạnh mẽ của dân châu Âu tìm đường đến châu Mĩ
Cùng với công cuộc bành trướng đất đai về phía tây, ngay từ những năm đầu sau cuộc cách mạng, chủ nghĩa tư bản Mi đã mưu toan mở rộng sự thống trị của mình ở châu Mĩ Latinh. Học thuyết Mơn Rô ra đời tháng 2 năm 1823 nêu khẩu hiệu “châu Mĩ là của người châu Mĩ”, thực chất là “châu Mĩ của người Bắc Mi”. Học thuyết đó nhằm che đậy thực chất của cuộc đấu tranh sau này chống Tây Ban Nha để giành giật thuộc địa. Chiến tranh giành Mexico 1846-1848 là trận mở đầu cho cuộc hành quân lớn về Trung và Nam Mĩ. Mã định kế hoạch sáp nhập Cuba vào Mĩ, đưa quân đến vùng biển Uruguay, Argentina, có ý đó nắm toàn bộ kinh tế ở châu Mĩ. Đổng thời từ những năm 40 của thế kỉ XIX, Mĩ đã tham gia chia phần trong cuộc chiến tranh Thuốc phiện ở Trung Quốc, kí với Mãn Thanh hiệp ước Vọng Hạ năm 1844, sau đó tham gia chiến tranh Thuốc phiện lần thứ II (1854-1860), cùng đế quốc Anh và Mãn Thanh đàn áp phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc. Năm 1853, Mĩ đã phải đô đốc Peri chỉ huy 4 chiến hạm đến uy hiếp buộc Nhật Bản mở cửa. Như vậy từ giữa thế kỉ XIX nước Mỹ tư bản đã trở thành một tên đế quốc đẩy tham vọng muốn chiếm nhiều đất đai.
2. Sự phát triển công nghiệp và phong trào công nhân
Cho đến trước cuộc nội chiến, trong gần 100 năm, kinh tế Mĩ chủ yếu phát triển theo hai con đường : con đường công thương nghiệp của miền Bắc và con đường chế độ nô lệ đón điển ở các bang miền Nam. Sự phát triển kinh tế của hai miền đã tạo ra mâu thuẫn không tránh khỏi.
Nước Mĩ tư bản chủ nghĩa có một vùng đất rộng lớn, tài nguyên vô cùng phong phú, những tàn dư phong kiến không nặng nề như ở châu Âu. Nước Mĩ còn có nguồn lao động bổ sung do dân di cư từ nhiều nước châu Âu đến làm cho thành phần cư dân đa dạng, có kĩ thuật, cần cù lao động xây dựng cuộc sống mới. Do đó, nước Mĩ đã giành được nhiều thành tựu trong sự phát triển sản xuất.
Về công nghiệp, nước Mĩ đã được thừa hưởng rất nhiều thành tựu cách mạng kỉ thuật của châu Âu và đặc biệt là của cuộc cách mạng công nghiệp Anh.
Trong những năm đầu thế kỉ XIX, ngành công nghiệp nhẹ phát triển nhanh, đặc biệt là công nghiệp dệt. Năm 1805, công nghiệp dệt của Mĩ có 4500 suốt, đến trước cuộc chiến tranh li khai, đạt tới 5.200.000 suốt, đứng hàng thứ 2 trong công nghiệp thế giới. Vào những năm 34-40 của thế kỉ XIX, việc sử dụng máy hơi nước trong các công xưởng cũng đã trở thành phổ biến.
Công nghiệp đường sắt bắt đầu phát triển với tốc độ rất nhanh. Nó là mạch vận chuyển nguyên liệu, hàng hóa công nghiệp trên một vùng đất rộng hàng triệu cây số vuông. Năm 1850, Mĩ đã xây dựng xong 15.000 kilômét đường sắt, đứng hàng đầu thế giới, đến năm 1860 đã dài tới 49.287 kilômét. Những hệ thống đường xe lửa lớn tại miền bờ biển Đại Tây Dương, những trung tâm Niu Oóc, Penxinvania, Baltimore v.v… được nối với miền Tây rộng lớn. Việc cung cấp lương thực, nguyên liệu cho các trung tâm công nghiệp được giải quyết kịp thời nhờ sự phát triển của đường sắt. Năm 1860 đã có tới 460 đầu máy xe lửa chế tạo tại Mĩ.
Việc phát hiện ra mỏ vàng ở Caliphoocnia năm 1848 góp phần tạo sự kích thích cho nền kinh tế công nghiệp. Ngành khai mỏ, luyện kim đặc biệt phát triển. Sản xuất gang thép đã nhanh chóng tạo thế đứng vững trong các ngành công nghiệp của Mĩ. Từ năm 1850 đến năm 1860, sản lượng gang thép từ 600.000 tấn lên tới 988.000 tấn. Về than đá, năm 1860 sản xuất được 143 triệu tấn.
Do nguyên liệu gỗ phong phú, nhu cầu vận chuyển đường biển. và đường sông rất lớn nên ngành đóng tàu phát triển rất nhanh. Từ trước cách mạng, công nghiệp đóng tàu của Mĩ đã từng cung cấp cho ngành hàng hải của chính quốc Anh. Bây giờ, công nghiệp đóng tàu trước nhu cầu mới càng phát triển nhanh chóng Đến năm 1862, riêng tàu buôn bán trên biển của Mĩ đã đạt trọng tải 2,4 triệu tấn. Ngoài ra, việc vận tải đường sống cũng trở thành nhu cầu bức thiết giữa miền Đông và Tây nước Mỹ, giữa vùng đất giàu có ở trung tâm và vùng đất phát triển ở miền Đông. Sự phát triển công nghiệp đóng tàu chạy trên sông đặc biệt được chú ý từ đầu thế kỉ XIX. Tuyến đường sông Ôhaiô và Mitxixipi thành một mạng vận chuyển quan trọng đối với kinh tế nội địa.
Ngay từ năm 1850, giá trị sản lượng công nghiệp đã vượt quá giá trị sản lượng nông nghiệp. Nam 1860, Mĩ có 140.433 xí nghiệp với số vốn khoảng 1 tỉ đô la, giá trị sản lượng hàng năm gần 2 tỉ đô la. Sự hình thành các trung tâm công nghiệp đã bắt đầu. Niu Inglan chiếm 2/3 xí nghiệp vải và len, Penxinvania thành trung tâm luyện kim. Điều đáng chú ý là công nghiệp chế tạo máy đã trở thành một ngành công nghiệp quan trọng Nam 1817, xuất hiện nhà máy chế tạo máy hơi nước. Đến giữa thế kỉ XIX, số nhà máy chế tạo máy móc đã tăng lên đáng kể. Sản xuất công nghiệp của Mỹ đã dừng hàng thứ 4 trên thế giới sau Anh, Pháp, Đức.
Tư bản Mĩ phát triển nhanh chóng đòi hỏi sức lao động rất lớn, chúng đã bóc lột triệt để sức lao động của cả trẻ em và phụ nữ. Năm 1820 có 1/2 số công nhân chưa đến tuổi thành niên. Ngày công thường kéo dài từ 12 giờ đến 13 giờ, tiền công rất thấp. Đối với trẻ em, tiến công chỉ bằng 1/10 người lớn. Sự tồn tại chế độ nô lệ đã làm cho bọn tư bản có đối tượng so sinh để tăng cường áp bức bóc lột công nhân. Ở các trung tâm dệt, nữ công nhân phải sống trong những trại riêng bị canh giữ nghiêm ngặt. Khi những người công nhân ốm đau, già yếu họ không có tiền trả những khoản chi phí sinh hoạt liền bị nhốt vào các trại giam.
Đói khổ, thất nghiệp, chết chóc thành hiện tượng phổ biến trong đời sống công nhân Mĩ. Sự bành trưởng về miền Tây, việc xây dựng đường sắt, đào kênh đã chôn vùi rất nhiều công nhân người Ailen và công nhân da đen.
Năm 1836, nạn thất nghiệp trong công nghiệp dệt lan tràn. Năm 1857, cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho ngay cả công nhân luyện kim và công nhân các ngành chế tạo máy móc cũng thất nghiệp.
Số lượng công nhân ngày càng tăng lên nhanh chóng theo nhịp độ công nghiệp. Ở Mĩ năm 1860 đã có tới 1,3 triệu công nhân. Cuộc sống đói khổ và bị áp bức bóc lột nặng nề làm cho giai cấp công nhân Mĩ sớm giác ngộ đấu tranh. Ngay từ năm 1786, công nhân in ở Philadelphia đã bãi công đòi tiền công tối thiểu hàng tuần. Năm 1799, công nhân đóng giấy bài công chống việc giảm lương. Việc đình công đấu tranh chống chủ tư bản trở thành hiện tượng phổ biến, từ năm 1833-1837 ở Mĩ có tới 168 cuộc bài công, đạt quy mô thành phố.
Phong trào đấu tranh của công nhân đã dẫn tới sự thành lập các công đoàn bảo vệ quyền lợi và chỉ đạo đấu tranh. Tổ chức liên minh công nhân viên toàn quốc xuất hiện năm 1834. Các công đoàn, hội công nhân các ngành đường sắt, in… đều xuất hiện trong thời kì này.
Tháng 6-1852, tổ chức mác-xít đầu tiến “Đồng minh những người cộng sản” thành lập ở Niu Oóc. Cuốn “Tuyên ngôn của Đảng Cộng. sản” của Mác-Ăngghen đã đến tay những người công nhân Mĩ. Hoạt động của phong trào công nhân Mĩ sôi nổi hẳn lên. “Hội liên hiệp công nhân Mị” và “Câu lạc bộ cộng sản” thành lập ở Niu Oóc (1851), Câu lạc bộ cộng sản đã tuyên bố mục đích của họ là thực hiện nước cộng hòa thế giới.
3. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp và “con đường kiểu Mĩ”
Nước Mĩ bước vào thời kì phát triển với đặc trưng nông nghiệp là ở miền Bắc và Tây Bắc, nền kinh tế trại chủ nhỏ chiếm ưu thế, sản xuất phục vụ thị trường công nghiệp. Nhưng ở miền Nam, nền nông nghiệp nằm trong tay các chủ đồn điền lớn dựa trên sự bóc lột nô lệ da đen.
Từ sau cách mạng phong trào di cư rộng lớn đã biến vùng Tây Bắc thành khu chăn nuôi cừu, lợn và sản xuất lúa mì. Từ năm 1840-1860, chỉ trong vòng 20 năm, việc sản xuất lương thực ở các bang Tây Bắc tăng gấp 3 lần. Ngành chăn nuôi do đó phát triển mạnh đặc biệt là lợn và cửu. Sicagô thành nơi tập trung nhiều lò mổ thịt lợn, ướp để xuất khẩu và là trung tâm bán lúa mì của Mĩ.
Từ năm 1820, những di dân nông nghiệp được mua những mảnh đất từ 80 acrơ đến 160 acrơ. Họ được vay vốn kinh doanh đến khi đạo luật cư trú ra đời (1862), làn sóng di dân càng lớn vì được cấp không những mảnh đất đến 160 acro. Người trại chủ canh tác trên mảnh đất bằng sức lao động của chính mình và gia đình, làm hàng hóa nông phẩm bán ra thị trường. Nó tạo nên con đường phát triển nông nghiệp khác với nhiều nước châu Âu, được gọi là con đường kiểu Mĩ.
Ở miền Nam, các đồn điền trồng bông phát triển nhanh. Bỗng trở thành loại cây trồng có lợi ích kinh tế hàng đầu ở đồn điền miền Nam. Vùng đất màu mỡ của Alabama và Mitxixipi rất thuận lợi cho nghề trồng bông. Ludiana và Tếch Dát cùng chiếm vị trí quan trọng trong ngành sản xuất này. Nam 1808 sản lượng bóng đạt 3.650.000 phun, đến 1860 sản lượng bông lên tới 1.920.500.000 phun.
Bên cạnh những đồn điền trồng bông là đồn điền trồng mía. Chính cơ sở này làm cho công nghiệp sản xuất đường phát triển. Năm 1744. ở Ludiana có 762 đồn điền mía, sản lượng đường năm 1860 lên tới 856 tấn. Ở Nam Carolina và Gioocgia lúa gạo trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Năm 1820-1850 tăng lên 3 lần. Nghệ thuốc lá có cơ sở lâu đời, đáp ứng nhu cầu xuất càng sang các nước châu Âu. Từ 1850-1860 sản lượng thuốc lá cũng tăng gấp 2 lần. Thuốc lá Virginia được coi là loại hàng quý trên thị trường thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế nông nghiệp tư bản chủ nghĩa Mĩ gắn liền với kinh tế trại chủ và kinh tế đón điên. Nó đem lại nguồn sản phẩm dồi dào và phong phú nhưng cũng phải trả giá bằng mồ hôi và xương máu của hàng vạn người thổ dân da đỏ và nô lệ da đen.
Nhưng con đường phát triển nông nghiệp kiểu tư bản Mỹ không thể dung nạp chế độ nô lệ đồn điền miền Nam và bản thân những người nô lệ ngày càng đông sẽ đấu tranh đòi giải phóng. Mâu thuẫn trên sẽ dẫn nước Mĩ đến một cuộc nội chiến không tránh khỏi. Cuộc đấu tranh nhằm quét sạch những tàn dư của chế độ nô lệ, của phương thức sản xuất lạc hậu mở đường cho chủ nghĩa tư bản Mĩ phát triển.
4. Chế độ nô lệ và mâu thuẫn xã hội
Sự phát triển kinh tế đồn điện đã thúc đẩy việc buôn bán nô lệ da đen từ châu Phi sang Mĩ. Năm 1790 nô lệ da đen có 697.000 người nhưng đến năm 1861 đã lên tới 4 triệu.
Sau chiến tranh giành độc lập, Hiến pháp Mĩ đã mặc nhiên công nhận sự tồn tại của chế độ nô lệ. Đó chính là sự thỏa hiệp giữa chủ nô và tư bản hai miền Nam Bắc. Chủ nô đã đưa được đại diện của mình lên làm Tổng thống trong nhiều nhiệm kì và nhờ đó đã bảo vệ được chế độ nô lệ đón điển ở miền Nam. Nhưng công nghiệp ngày càng phát triển, sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản công nghiệp. đã dẫn mâu thuẫn với chế độ đồn điền nô lệ. Quyền lợi giữa hai tập đoàn tư bản công thương nghiệp và chủ nô miền Nam không thể điều hòa được nữa. Cuộc đấu tranh đã diễn ra trên hai vấn đề cơ bản có liên quan với nhau là việc khống chế khu đất mới xây dựng và việc nắm quyền chi phối chính phủ Liên bang. Việc cạnh tranh với các nước tư bản châu Âu đã đặt vấn đề phát triển chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp và nông nghiệp của Mĩ một cách bức thiết.
Đến những năm 50 của thế kỉ XIX, kinh tế đón điển ở miền Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng. Việc sản xuất bông ở Ấn Độ đã làm cho Mĩ mất độc quyền về bóng trên thế giới. Trong các đồn điền, chủ nô không chịu cải tiến công cụ và cải tạo đất đai. Họ chủ yếu dựa vào việc vất máu nô lệ để sinh lợi nhuận. Đất ngày càng bạc màu cần cổi, chế độ nô lệ đã ngăn trở những người di dân đa trắng tự do vào miền Nam. Sự tồn tại chế độ nô lệ ảnh hưởng đến cơ sở phát triển công nghiệp, và chính bản thân chủ đất cũng ngày càng thiếu đất.
Để giải quyết vấn đề thiếu đất đai màu mỡ, nhiều chủ nô muốn đi về hướng tây, phát triển chế độ đồn điển ở đó. Phía tây là miền đất dự trữ rộng lớn, mẫu mỡ. Chủ kinh doanh miền Bắc muốn đi về phía tây để trồng ngô, lúa mì và nuôi gia súc. Họ muốn biến vùng này thành vùng hậu cần cho công nghiệp. Chủ nổ muốn vào vùng đất mới với mục đích thay thế vùng đất bạc màu ở miền Nam, muốn tiếp tục phát triển chế độ lệ. Mâu thuẫn về hướng phát triển phía tây ngày càng gay gắt. Chủ công nghiệp miền Bắc hướng tới một nền công nghiệp tự chủ và có thể cạnh tranh. Họ muốn bảo đảm thị trường quan thuế nội địa để bảo vệ và khuyến khích nên công nghiệp trong nước. Chính lúc đó, chủ nô đóng chặt cửa thị trường miền Nam không cho hàng hóa miền Bắc vào, nhưng lại mở cửa nhập hàng hóa của Anh.
Ở miền Nam, các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên miền.
Ở Ludiana nổ ra cuộc khởi nghĩa của nô lệ năm 1741-1792, ở Virginia năm 1792. Mùa xuân năm 1800 gần 1000 nô lệ tập trung ở Rivomen thuộc bang Virginia tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang giải phóng dưới sự lãnh đạo của Gorây bien. Năm 1822 có cuộc khởi nghĩa của nô lệ ở Nam Carolina. Năm 1831 cuộc nổi dây do Tooche lãnh đạo. Năm 1857 một trại chủ người da trắng Giòn Brao đã lãnh đạo nô lệ đánh chiếm kho vũ khí ở Virginia, nhưng cuối cùng cũng bị trấn áp.
Như vậy mâu thuẫn giữa tư bản công thương nghiệp với chủ nô miền Nam ngày càng gay gắt. Những nhà tư bản miền Bắc muốn tập trung quyền lực ở trung ương để thống nhất điều khiển sự phát triển kinh tế, đòi phải đánh thuế cao các hàng công nghiệp nhập có hại cho nền sản xuất của địa phương. Trái lại những chủ đón điển, đặc biệt những chủ kinh doanh bỏng muốn hạ thấp quan thuế xuất khẩu. Sự thỏa hiệp trong thời gian đấu sau cách mạng giữa tư bản công thương nghiệp và chủ nó là cần thiết, dựa trên điều kiện phát triển của kinh tế Mĩ lúc bấy giờ. Nhưng đến những năm 50-60 của thế kỉ XIX, vấn để khai thác miền Tây và khuynh hướng phát triển. kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội không cho phép chế độ nô lệ tồn tại nữa thì cuộc đấu tranh giữa hai bên trở nên gay gắt.
Cuộc di thực về phía tây vào thế kỉ XIX ngày càng mạnh mẽ. Số người dân đi thực gồm đủ loại : trại chủ, công nhân thất nghiệp, dẫn di cư sang Mỹ sau cách mạng 1848 ở châu Âu. Những người này cần đất và cần tự do, muốn thiết lập trang trại ở miền đất phía tây. Họ chống lại chủ nô muốn chiếm đất phía tây và muốn biến họ thành nô lệ. Họ bị chèn lấn khổ sở mặc dù nhà nước bán đất rẻ. Nam 1855, nhà nước bán tới 15 triệu acrơ, nhưng bọn chủ nô đã ngàn trở việc giải quyết vấn đề ruộng đất theo hướng dân chủ. Cuộc đấu tranh chống chế độ nô lệ, chống chủ nô trở thành cuộc đấu tranh sống mái giữa hai thế lực tiến bộ và bảo thủ.
Lực lượng tham gia đấu tranh chống chế độ nô lệ không còn hạn chế trong những người nô lệ da đen vì quyền sống còn của mình, mà đã lan sang người da trắng, kể cả những người giàu có và chủ tư bản. Họ đấu tranh vì con đường phát triển của mình
Đối với giai cấp công nhân Mĩ, họ là tầng lớp xã hội gần nhất với những người nô lệ về thân phận. Họ cũng nhận thức được rằng : Nước Mĩ nơi mà “à đó lao động da đen bị sỉ nhục và đẩy dọa, thì lao động da trắng cũng không được giải phóng.
Chính với những lí do trên, cuộc nội chiến của nước Mĩ 1861-1865 trở thành cuộc đấu tranh nhằm giải quyết những nhu cầu của sự tiến bộ lịch sử.