Cuộc cách mạng 18 tháng 3 và sự thành lập công xã Pari
1. Cuộc cách mạng 18 tháng 3 và cuộc bầu cử Hội đồng Công xã
3 giờ đêm 17 rạng ngày 18-3, chính phủ Chi cho quân đi chiếm các vị trí chiến lược thuộc tả ngạn sông Sen, đồng thời có những phân đội được điều đến những khẩu đại bác của Pari. Mục tiêu tấn công chủ yếu là đồi Mongmac Tơriơ ở phía bắc Pari để chiếm lấy trọng pháo của quân vệ quốc bố trí ở đây. Đến 5 giờ rưỡi, quân chính phủ tiến được lên đối và chiếm đại bác, nhưng không chuyển đi được. Trong khi đó, chuông báo động và kèn tập họp quân vệ quốc nổi lên. Nhân dân Pari, đông đảo phụ nữ và vệ quốc quân kéo đến, tiến lên đổi bao vây chặt đội quân này. Binh lính trong đội quân của chính phủ ngả về phía nhân dân, tước vũ khí của các sĩ quan và quay súng bắn chết tại chỗ tên tướng chỉ huy. Quân chính phủ bắt tay thân thiện với quân vệ quốc và nhân dân Pari.
9 giờ sáng, các lực lượng của chính phủ thất bại hoàn toàn. Đại bác vẫn giữ nguyên trong tay quân vệ quốc, quân chính phủ ở Pari vội và lui quân.
Trưa ngày 18-3, Ủy ban trung ương quân vệ quốc ra lệnh cho các tiểu đoàn tiến vào trung tâm thành phố và chỉ sau mấy tiếng đồng hố đã chiếm được các cơ quan chính phủ, các trại lính và tòa thị chính. Trước sự thất bại bất ngờ và nhanh chóng đó, chiều ngày 18-3, Chính phủ Chie hoảng sợ, vội chạy về Vecxai và điều về đây số quân còn lại với mưu đổ sẽ tập hợp lại lực lượng để phản công Pari. Đến 10 giờ đêm, cờ đỏ cách mạng đã tung bay trên tòa thị chính và trên khắp các công sở ở Pari.
Đó là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền từ sân bị lật đổ. Ủy ban trung ương quân vệ quốc trở thành Chính phủ lâm thời.
Lúc bấy giờ phong trào không có dự tính trước cho nên không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Ngay từ khi tiến hành chiếm đóng các cơ quan quan trọng, Ủy ban trung ương quân vệ quốc không nghĩ tới việc chiếm nhà Bưu điện và nhà Ngân hàng Pháp. không tiếp tục tấn công vào Vecxai để đập tan quân chính phủ trong lúc Chia chưa kịp củng cố lực lượng. Ủy ban vội và ấn định tổ chức cuộc tuyển cử vào ngày 26-3, mà đáng lẽ công việc trọng yếu nhất lúc này là lo chống lại cuộc phản công của quân Chính phủ. Chính trong lúc Ủy ban trung ương lo việc tổ chức tuyển cử thì bọn phản động Vecxai đã lợi dụng thời gian rất ngắn ngủi đó tổ chức lại lực lượng.
Ngày 26-3, nhân dân Pari tiến hành bầu cử Hội đồng Công xã trong không khí tưng bừng nhộn nhịp. Ngày 28 công bố kết quả bầu cử, Hội đồng long trọng tuyên bố thành lập. 85 đại biểu trúng cử, trong đó có 25 công nhân. Đó là tỉ lệ từ trước đến thời đó chưa từng có trong một chính phủ được bầu theo phương thức tuyển cử phổ thông như vậy. 15 đại biểu của các tầng lớp tư sản trúng cử nhưng đã sớm từ chức ngày và trên thực tế họ không tham gia Hội đồng Công xã. Bộ phận đại biểu còn lại thì phần lớn gồm các nhà trí thức, bác sĩ, giáo viên, nhà báo, luật sư, công chức. Có gần 30 đại biểu là hội viên của Quốc tế I trong Hội đồng Công xã. Như vậy Hội đồng Công xã gồm có đại biểu của nhân dân lao động và trí thức tiến bộ Pari. Tuy công nhân không chiếm được đa số, nhưng họ là những chiến sĩ thật sự và quen thuộc của nhân dân, trung kiên và có khả năng trong việc phục vụ lợi ích của những người lao động.
Trong Hội đồng Công xã, nhiều lãnh tụ lỗi lạc, nhiều nhà tổ chức ưu tú xuất thân từ giai cấp công nhân hay dân nghèo đã nổi bật lên như Duyuan thợ đúc, là tướng của Công xã đồng thời là ủy viên Ủy ban quân sự ; Tenxơ thợ khác phụ trách bưu điện ; Vaclanh, người phụ trách hậu cần rồi chỉ huy Ủy ban quân sự đã hi sinh anh dũng trong những phút cuối cùng của Công xã ; Luido Misen người chỉ huy kiên cường đội nữ dân quân, được tôn danh hiệu “Nàng trinh nữ đỏ… Hàng nghìn người vô sản khác giữ trách nhiệm lãnh đạo trong các cơ quan hành chính mới ở Pari và các tiểu đoàn quân vệ quốc.
Tham gia lãnh đạo Công xã còn có nhiều ngoại kiểu lỗi lạc như Dômbarốpxki, người Ba Lan làm tư lệnh tả ngạn và sau này làm tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang của Công xã ; như Elidauéta Dimitoriềua, người Nga, chịu trách nhiệm về công tác tổ chức lao động cho phụ nữ ; Phrăngken, người Hung, ủy viên phụ trách tài chính, lao động công thương nghiệp.
Trong những ngày cuối tháng 3, do ảnh hưởng của cuộc cách mạng ở Pari, nhiều trung tâm công nghiệp lớn của Pháp như Lyông Xanh Êchiên, La Corodo, Mácxây, Tuludo, Nacbon và Limôgia, nhân dân lao động đã khởi nghĩa, giành chính quyền và thành lập công xã địa phương. Nhưng những công xã này, không có sự chỉ huy thống nhất, hoạt động lẻ tẻ, rời rạc nên chỉ tồn tại được gắn 10 ngày. Do đó, công xã ở các địa phương không thể trở thành lực lượng hỗ trợ cho Pari cách mạng.
Sắc lệnh đầu tiên của Công xã quyết định bởi bỏ quân đội thường trực cả – một đội quân nhà nghề được sử dụng để chống lại nhân dân – và thay thế bằng lực lượng vũ trang nhân dân. Công xã cũng thủ tiêu bộ máy cảnh sát cũ. Việc giữ gìn an ninh trật tự trong thành phố do công nhân vũ trang đảm nhiệm.
Như vậy, giai cấp vô sản Pari đã thực hiện điều quan trọng nhất của cách mạng vô sản tức là tổ chức và vũ trang cho tất cả những bộ phận nghèo nhất, bị bóc lột trong nhân dân để họ tự mình trực tiếp nắm lấy tất cả những cơ quan chính quyền Nhà nước, để họ tự mình tổ chức những cơ quan của chính quyền này.
Công xã đã thay bộ máy chính quyền của giai cấp tư sản theo kiểu nghị viện bằng cách thành lập chính quyền của giai cấp công nhân dựa trên cơ sở dân chủ vô sản, thực sự vì quyền lợi của đa số bị bóc lột chống lại thiểu số đi bóc lột. Cơ quan tối cao của Nhà nước là Hội đồng Công xã do phổ thông đầu phiếu bầu ra. Công xã quy định những ủy viên nào không được nhân dân tín nhiệm nữa thì có thể bị bãi miễn và cán bộ nhân viên Nhà nước được lĩnh lương ngang với mức lương trung bình của công nhân. Hội đồng Công xã ban bố luật pháp và tổ chức 10 ủy ban để thi hành pháp luật. Các ủy ban này đều chịu trách nhiệm trước Hội đồng Công xã, mỗi ủy ban do một ủy viên của Hội đồng làm chủ tịch. Như vậy là chính ngay những ủy viên của Hội đồng Công xã đã tự mình thì hành những luật pháp do Hội đồng ban bố.
Như vậy, Công xã đã thiết lập được một chính phủ ít tốn kém nhất bằng cách hủy bỏ hai nguồn chi tiêu lớn là quân đội thường trực và hệ thống quan lại cũ. Tất cả các cơ quan chủ yếu của Nhà nước được đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Công xã. Công xã không chỉ là một cơ quan đại nghị mà còn nắm cả quyền lập pháp lẫn quyền hành pháp. Hội đồng Công xã trở thành một cơ quan hành động và chịu sự giám sát từ dưới lên của quần chúng nhân dân.
Công xã ra sắc lệnh tách nhà thờ ra khỏi những hoạt động của Nhà nước, các tăng lữ không được can thiệp vào công việc của chính quyền, hủy bỏ ngân sách về tôn giáo. Những tài sản của các thánh hội tôn giáo, động sản hay bất động sản, đều coi là tài sản quốc gia. Tất cả trường học đều thoát khỏi mọi sự quản lí của nhà thờ về mặt ý thức hệ và chương trình giáo dục. Nhà nước vô sản có ý thức quan tâm đến lực lượng đông đảo trong xã hội là giai cấp nông dân và cố gắng thiết lập liên minh công nông. Trong hoàn cảnh bị bao vây, Công xã dùng đến khinh khí cầu rải xuống nông thôn 10 vạn tờ truyền đơn kêu gọi nông dân, dưới kí tên “Những người công nhân Pari”. Trong những tờ truyền đơn ấy, những người vô sản Pari nói rõ tính chất chung giữa lợi ích của vô sản và của nông dân.
Nhưng việc xây dựng khối liên minh công nông gặp nhiều trở ngại, do sự tuyên truyền xuyên tạc của chính phủ Chie và báo chí phản cách mạng chúng đã chia rẽ và đối lập những người lao động thành thị với những người lao động nông thôn. Ví dụ chúng tung tin rằng các chiến sĩ Công xã chủ trương thủ tiêu bất cứ quyền sở hữu nào làm cho nông dân lo ngại. Mặt khác, do quân Phổ và quân Vecxai bao vây chặt Pari, nên Công xã không thể liên hệ được với các tỉnh.
Chính quyền Công xã Pari còn thể hiện rõ tính chất và sản quốc tế. Có rất nhiều ngoại kiểu tham gia vào phong trào Công xã. Công xã đã chấp nhận Phrăng Ken và giao cho ông trách nhiệm quan trọng trong Hội đồng Công xã. Công xã tỏ lòng tín nhiệm đưa Đubrốpxki đảm đương chức vụ lãnh đạo của những người bảo vệ Pari. Chính những người Pháp lãnh đạo Công xã cũng đã hiểu rằng chủ nghĩa quốc tế vô sản phải hòa một cách tự nhiên và logic với chủ nghĩa yêu nước. Ngay từ đấu, Công xã lấy ngọn cờ đỏ làm “cờ của nền Cộng hòa thế giới”, và lá cờ đỏ tượng trưng cho cách mạng lần đầu tiên trở thành cờ của một quốc gia. Công xã còn quyết định phá đồ cột Văng Đôm không chỉ vì căm thù chế độ độc tài của Napoleon III mà còn vì tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc.
Mác cũng như Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng Công xã Pari, trong hoạt động của mình, đã dựa vào sáng kiến vô cùng to lớn của quần chúng nhân dân. Công xã đã thực hiện nguyên tắc dân chủ tập trung. Hội đồng Công xã đã tiếp thu những sáng kiến của quần chúng thông qua các tổ chức Công đoàn, phụ nữ, các câu lạc bộ và báo chí. Lênin nói rằng, Công xã sử di thực hiện được những thành tích to lớn là “nhờ sự nhạy cảm của quần chúng đã giác ngộ một cách thiên tài”.
2. Những chính sách kinh tế, xã hội của Công xã
Công xã quyết định giao cho công nhân quản lí tất cả những xí nghiệp và công xưởng mà bọn chủ đã chạy trốn khỏi Pari. Ủy ban lao động do Hội đồng Công xã thành lập chăm lo việc tổ chức sản xuất và thu xếp công ăn việc làm cho những người thất nghiệp. Toàn bộ công việc của nhà máy đạt dưới quyền kiểm soát của công nhân. Công nhân hợp tác với chính quyền xây dựng kế hoạch sản xuất và nội quy trong xưởng. Đối với những xưởng mà bọn chủ còn ở lại thì Công xã quản lí nhà máy thông qua việc kiểm soát tiền lương. Hội đóng Cộng xã ra sắc lệnh cấm bọn chủ không được dùng hình thức cúp phạt đối với công nhân. Mặc dấu chủ xưởng phản đối quyết liệt sắc lệnh cấm làm việc đêm trong các xưởng bánh mì ban bố ngày 20-4 vẫn được thi hành.
Công xã đề ra chế độ ngày làm 8 giờ (nhưng chưa kịp thực hiện) đồng thời ra sắc lệnh tăng lương cho công nhân, quyết định hạ lương những viên chức trước đây đã lĩnh quá nhiều. Lương bổng được sắp xếp theo năng lực chuyên môn.
Đến tháng 5, Công xã ban hành đạo luật quy định giá bánh mì, các loại thịt bò, thịt cừu. Những công dân nghèo có đồ vật đã đem cấm tại các nhà cấm đó đều được trả lại, tiền thuê nhà được hoàn trả, công nhân rời bỏ những nhà thám tối tăm, ẩm thấp và được đến ở tại các dinh thự của bọn quý tộc và bọn tư sản đã trốn đi Vecxai. Công xã ra sắc lệnh bảo đảm quyền công dân của phụ nữ, vạch kế hoạch xây dựng các nhà giữ trẻ và vườn trẻ cho con em công nhân.
Về văn hóa giáo dục, Công xã quyết định lập hệ thống giáo dục thống nhất thực hiện việc tách giáo dục khỏi nhà thờ, đồng thời lựa chọn giáo viên mới thay thế cho lớp cũ mà đa số là cha cố, quyết định tăng lương cho giáo viên lên gấp 2, 3 lần so với trước. Công xã ra sắc lệnh thi hành chế độ giáo dục bắt buộc và không mất tiền, cấp phát đồ dùng học tập cho học sinh các trường. Ngày 12-5 còn quyết định lập 2 trường chuyên nghiệp, trong đó 1 trường dành riêng cho nữ sinh về mĩ nghệ, ứng dụng nghệ thuật vào công nghiệp. Ủy ban giáo dục được thành lập để chăm lo công tác giáo dục.
Ngày 21-5, Công xã quyết định thủ tiêu kinh doanh nghệ thuật tư nhân và giao các rạp hát cho Hội nghệ sĩ sân khấu quản lí. Nhằm phục vụ khán giả mới, các rạp hát giảm giá vé xuống rất nhiều. Những di sản nghệ thuật thời trước được quý trong. Những viện bảo tàng của Pari được khôi phục để bảo tồn vốn cổ, đồng thời để tổ chức các cuộc triển lãm của Công xã của quốc gia và quốc tế ở Pari. Hội liên hiệp các nghệ sĩ Pari được thành lập. Công xã tuy tồn tại rất ngắn ngủi nhưng về mặt văn học đã có nhiều tác phẩm ra đời, những nhà văn, đồng thời là chiến sĩ như Ogien, Pochiê, Luydơ, Misen, Giuyn Valet… Đó là bước mở đầu của trào lưu văn học vô sản cách mạng trong lịch sử. Nổi bật là bài thơ Quốc tế của Ogien Pôchiê được sáng tác ngay trong những ngày khởi nghĩa, sau được phổ nhạc và trở thành bài ca đoàn kết đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế.
Tất cả những biện pháp có tính chất xã hội chủ nghĩa được Công xã ban hành chính là do kết quả của sự hợp tác chặt chẽ giữa Hội đồng Công xã với các tổ chức công nhân, các tổ chức quần chúng. với quần chúng công nhân và nhân dân lao động.
Toàn bộ hoạt động trên chứng tỏ Công xã là một Nhà nước kiểu mới – một nhà nước vô sản. Công xã Pari là biểu hiện đầu tiên về chuyên chính vô sàn, nhưng nó là nền chuyên chính chưa đầy đủ và chưa vững chắc. Vấn đề chủ yếu là các chiến sĩ Công xã còn thiếu một đảng vô sản lãnh đạo. Tính kỉ luật, tính tổ chức của họ còn yếu. Giai cấp công nhân lại không được chuẩn bị, chưa được rèn luyện, phần đông chưa hiểu rõ ràng mục đích của cuộc đấu tranh, không có một ý niệm thật rõ rệt về nhiệm vụ của mình và những phương sách để thực hiện nhiệm vụ đó ; chưa xây dựng được khối liên minh công nông. Mặt khác cũng do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ mà Công xã mắc phải một số thiếu sót trong hành động. Tuy vậy nó vẫn là kiểu mẫu đầu tiên của chính quyền vô sản.