Công cuộc cải cách thể chế theo con đường chính trị tư bản chủ nghĩa

1. Cải cách chế độ hành chính 

Nước Nhật xác định con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. muốn tiến hành cải cách dân chủ trong khuôn khổ quyền lực của vương triều, thể hiện trong năm lời tuyên thệ của Minh Trị Thiên hoàng : 

  1. Quốc Hội phải dân chủ và theo công luận quyết định việc nước. 
  2. Trên dưới đồng lòng lo việc nước. 
  3. Từ quan chức văn vô đến nhân dân đều phải theo đuổi chỉ nguyện để trong nước không còn mối bất mãn. d. Phá bỏ những tập quản xấu, mọi công việc theo pháp luật chung 
  4. Tiếp thu trí thức trên thế giới để chấn hưng sự nghiệp của hoàng triều.

Minh Trị đã thành lập một bộ máy chính quyền gốm Hữu viện (Uin) như là cơ quan hành pháp và Tả viện (Sain) như là cơ quan lập pháp. 

Người Nhật muốn xây dựng một chế độ phân quyền giữa lập pháp và hành pháp nên chính quyền Minh Trị được tổ chức như một chính thể quá độ. 

– Thiên hoàng giữ địa vị tối cao, thành lập chính phủ gồm đại diện các thế lực có tư tưởng cải cách, chủ yếu là các quý tộc của Satsuma, Choshu, Tosa, Hizen. 

– Toàn bộ cơ cấu hành chính được tổ chức theo một thể thống nhất, gồm các trưởng chịu mấy trăm huyện, quận ; sự chỉ huy thống đứng đầu là các tri huyện ; quận nhất của Trung ương. Nước Nhật từ công quốc nay quy thành 3 phủ và 72 huyện (Ken). lãnh chúa văn được bảo đảm cuộc sống bằng việc thu 1/10 lợi tức Các hàng năm của lãnh địa. 

Chính quyền Minh Trị tuyên bố xóa bỏ đảng cấp cùng với những đặc quyền của nó. Những quy định khắt khe về hôn nhân, hành nghé, ăn mặc theo đẳng cấp đều bị xóa bỏ. Tuy vậy các Daimyo vẫn được hưởng trợ cấp lớn tới 64.000 yên/người (1876). Họ trở thành những người tư sản giàu có và thường kinh doanh ngân hàng. 

Để xây dựng lực lượng quân sự hùng mạnh, Minh Trị ra lệnh thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự từ năm 1873. Thanh niên đến 20 tuổi, dù là bình dân hay quý tộc (hỏa tộc), đều phải nhập ngũ 3 năm, và sau đó phải có 4 năm làm quân nhân dự bị… Đồng thời tiến hành một cuộc cải cách quân sự nhằm xây dựng một đội quân hiện đại, thống nhất và phục vụ mục tiêu vì Nhật Hoàng vì Nhật Bản. 

2. Chính sách đối ngoại : 

Chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong thời kỳ đấu là giành quyền bình đảng, xóa bỏ những điều ước thua thiệt đã kí với các nước tư bản phương Tây. Việc này phải đến sau chiến tranh Nhật-Trung (1894 – 1895) và đặc biệt sau chiến tranh Nhật-Nga (1904 – 1906), Nhật Bản mới được coi là một cường quốc có vị thế ngang tầm các nước tư bản khác. 

Nước Nhật đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược : 

– Chiến tranh Đài Loan 1874 

– Chiến tranh Nhật-Trung 1894 – 1895. 

– Chiến tranh Nhật-Nga 1904 – 1905 . 

Các cuộc chiến tranh đã tỏ rõ sức mạnh của nước Nhật sau một thời kỳ quý tộc tư sản hóa và giai cấp tư sản liên kết với nhau trong việc củng cố và mở rộng quyền lực. Để thực hiện mục tiêu tiến hành những cuộc chiến tranh ra bên ngoài, chính phủ đã chú trọng phát triển kinh tế công nghiệp quân sự, xây dựng quân đội hiện đại và xác định đường lối chiến tranh xâm lược. 

3. Phong trào dân quyền và tự do 

Chính quyền Minh Trị đã xác định học tập phương Tây về mọi mặt, về kinh tế kỹ thuật và tư tưởng văn hóa. 

Năm 1871 một phái đoàn Nhật Bản do đại thần Iwakura Tomoni dẫn đấu đã đến tham và học hỏi 12 nước Âu Mĩ, đã nghiên cứu thể chế chính trị, hiến pháp của các nước đó. 

Người tuyên truyền tư tưởng tự do phương Tây là Fukuzawa Yukichi (1835 – 1901). Trong tác phẩm Khuyến học xuất bản năm 1872 – 1876, Ông khẳng định con người sinh ra phải được bình đảng, sự khác biệt là do học vấn và trình độ khác nhau. Ông chống việc học chi thuộc dẫn kinh viện một cách vô ích, mà nhấn mạnh việc học phải suy nghĩ, phải có mục đích vì tiến bộ của đất nước. Ông cho rằng học tập nước ngoài là nhằm mục đích đuổi kịp phương Tây. Trong cuốn sách Văn minh khái luận viết năm 1875, ông tuyên bố quan điểm của mình : 

“Để bảo vệ độc lập của Nhật Bản, không còn cách nào ngoài con đường tiến đến văn minh. Là do duy nhất để người dân Nhật Bản tiến đến văn minh là để bảo vệ độc lập đất nước”. 

Fukuzawa Yukichi nhận thức rằng Nhật Bản đã tồn tại mấy thế ký không coi trọng thương nghiệp, cho nên nước Nhật yếu nghèo. Ông khẳng định, đất nước muốn giàu mạnh phải chấn hưng buôn bán. 

Hội truyền bá kiến thức phương Tây đã xuất bản các tạp chí phổ biến các thành tựu khoa học : triết học, chính trị, giáo dục. tôn giáo, kinh tế, pháp luật v.v…. 

Tuy vậy, những thay đổi bước đầu vấp phải sự phản đối của một bộ phận xã hội. Trong thời kì đầu của cuộc duy tân Minh Trị, cuộc đấu tranh đã diễn ra gay gắt giữa 2 thế lực bảo thủ và cấp tiến. Quý tộc phong kiến thì luyến tiếc đặc quyền đặc lợi cũ. Tầng lớp tư sản mới hình thành mong muốn cải cách mạnh bạo hơn. Nông dân liên tiếp khởi nghĩa đòi ruộng đất, giảm thuế và giảm nghĩa vụ đóng góp. Ngay trong chính quyền cũng có những ý kiến khác nhau về con đường phát triển của Nhật Bản, thậm chí cuộc đấu tranh nhiều khi diễn ra quyết liệt. Saigo chủ trương xâm lược Triều Tiên để chuyển mâu thuẫn ra bên ngoài, nhưng phái đoàn của Iwakura về kịp và ngăn chặn mưu tính phiêu lưu khi Nhật còn non yếu. Saigo từ chức và sau đó đã gây ra cuộc chiến tranh tháng 2 – 1877. Lực lượng nổi lên chống đối Thiên hoàng và phe cải cách lên tới 40.000 người tấn công thành Kuwamoto. Cuộc nội chiến kéo dài 50 ngày, chỉ khi có viện binh từ Tokyo, tới quán Chính phủ mới giành được thắng lợi và Saigo đã mổ bụng tự sát. 

Các chính đảng lần lượt ra đời. Đầu năm 1874 giữa lúc phong trào chống thuế sôi nổi khắp nơi. Itagaki và các bạn bè của ông lập ra “Ái quốc công đảng” đã gửi kiến nghị phê phán Chính phủ độc tài, đấu tranh đòi lập nghị viện nhân dân, cho nhân dân tham gia chính quyền. Trên các báo chí xuất hiện cuộc luận chiến giữa phải tự do, dân quyền và lập hiến. Phong trào chống lại chế độ chuyên chế được mệnh danh là ” Tự do và Dân quyền”. Thực ra hai chữ “dân quyền” ở đây chỉ hàm chứa khái niệm dân có của có địa vị trong xã hội”. 

Trước đòi hỏi của phong trào, Chính phủ hứa sẽ chuyển sang chính thể lập hiến. Phong trào lan rộng nhanh chóng tháng 2 năm 1875 các đại biểu họp ở Osaka thành lập “Ác quốc xả” có tính chất toàn quốc. Tháng 5 – 1875, Itagaki và Kido tham gia chính phủ, tuyên bố sẽ chuyển thành chính phủ lập hiến, hứa sẽ triệu tập đại biểu của nhân dân cả nước thảo luận luật pháp. Nhưng Chính phủ Minh Trị vào tháng 6-1875 đã ra điều lệ bảo chí, kiểm soát ngôn luận, ráo riết hạn chế quyền tự do, hạn chế hoạt động của phải Tự do dân quyền. Đàng Ái quốc tan ra. Tháng 10 năm đó Itagaki từ chức. 

Cuộc đấu tranh vì tự do và dân quyền vẫn tiếp tục, nhân dân đã đưa 50 bàn kiến nghị với 24 vạn chữ kí cho Chính phủ. Phong trào đấu tranh giảm thuế của nhân dân lên cao. 

Năm 1880, phong trào bình dân dân chủ tư sản lên mạnh. Lúc này Enôri ở Tosa đã nổi lên và thành người lãnh đạo. Ông mở hội nghị chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng tư sản. Khẩu hiệu của đảng này là quyền bình đẳng cho nhân dân, xây dựng chính thể lập hiến. Năm 1881, đại biểu của phong trào Tự do dân quyền cả nước đấu tranh đòi dân chủ chính trị lên mạnh. 

Chính phủ buộc phải dùng chính sách vừa đàn áp, vừa xoa dịu, hứa hẹn quyền lợi cho quần chúng. Vào năm 80, Chính phủ ban hành đạo dụ sẽ lập Quốc hội vào năm 1890. 

4. Hiến pháp 1889 

Các đảng tư sản đã ra đời vào những năm 80 và cuộc đấu tranh của các đảng đã làm phát triển và hoàn chỉnh cơ cấu chính quyền mới. 

Đảng Tự do : chủ trương thể chế lập hiến, thành lập vào tháng 10 năm 1881 do Itagaki lãnh đạo. Đảng phản ánh quyền lợi của địa chủ nhỏ và phủ nông, vừa kinh doanh ruộng đất vừa kinh doanh công thương nghiệp. Họ đấu tranh để giảm thuế ruộng và đòi cải thiện điều kiện trong kinh doanh công thương nghiệp. Nông dân và tiểu tư sản tham gia đông đảo vào đảng Tự do. 

Đảng cải tiến lập hiến : thành lập 1882 do Okuma đứng đầu Đảng này đại biểu cho lợi ích tư sản công thương, những phần tử trí thức vô sỉ có liên hệ với tư sản lớn, có xu hướng ôn hòa được Mitsubishi ủng hộ. Họ chủ trương lập ngân hàng, phát triển buôn bán mậu dịch, mở rộng khu vực ảnh hưởng kinh doanh, muốn mở rộng sự xâm lược bên ngoài. 

Chính phủ một mặt đàn áp các đảng, một mặt dùng kế mua chuộc các thủ lĩnh và gây chia rẽ nội bộ. 

Phong trào đấu tranh của quần chúng lên cao. Để tránh một cuộc cách mạng nổ ra, năm 1882 Vua Minh Trị phái Itô Hirobumi đi ra nước ngoài nghiên cứu vấn đề lập hiến và cấu trúc thể chế chính trị. Định hướng của Nhật Bản là chọn mẫu hình tổ chức của nước Đức. 

Năm 1883, Ito Hirobumi về nước, khởi thảo Hiến pháp của Nhật Bản. 

Hiến pháp năm 1889 đã ra đời trong bối cảnh lịch sử đó nhằm tìm một thể chế thích hợp làm thỏa mãn những mong muốn quyền lực của giai cấp có của. Tuy vậy, Hiến pháp đóng thời cũng phản ánh sự thắng lợi của quán chúng nhân dân. 

Theo Hiến pháp, Quốc hội Nhật, chia làm 2 Viện tổ 

  1. Viện quý tộc có 368 người gồm các hoàng thân, quý tộc và những người giàu có nhất. 
  2. Viện đại biểu, còn gọi là Viện bình dân, có 300 đại biểu, bầu công khai. Cử tri phải là những người nam giới, trên 25 tuổi, đóng thuế 15 yên/năm, tương đương 100 ngày công của thợ dệt. Thời gian cư trú là 1,5 năm. Như vậy chỉ có chừng 1% dân số được tham gia bầu cử. 

Thiên hoàng là người có quyền tối thượng, quyền giải tán Quốc hội, xóa bỏ những đạo luật mặc dấu Quốc hội đã phê chuẩn, quyền tuyên chiến, đình chiến, điều chỉnh và phân bổ ngân sách, quyền bổ nhiệm bộ trưởng . 

Sau khi Hiến pháp ra đời, đường lối chính trị của Nhật trong thời kì Minh Trị là đường lối của tập đoàn quân phiệt, phát triển lực lượng quân sự, tiến hành chiến tranh xâm lược, xây dựng nền kinh tế theo hướng phục vụ chiến tranh. Hiến pháp đã khẳng định sự chọn lựa thể chế phù hợp với giới quý tộc quân phiệt tư bản Nhật Bản, dẫn Nhật Bản đi đến con đường phát triển chủ nghĩa quân phiệt. 

5. Phong trào công nhân 

Thời kì tích lũy tư bản đầu tiên ở Nhật gắn liền với sự bóc lột vô cùng nặng nề của chủ nghĩa tư bản. Công nhân nữ và trẻ em làm việc trong các công xưởng bị bóc lột tàn nhẫn. Trẻ em 8 tuổi. cũng phải đi làm thuê. Người lao động phải làm việc từ 15 – 16 giờ một ngày, dưới sự kiểm soát gắt gao của bọn chủ. 

Sự bóc lột nặng nề đã dẫn tới nhiều cuộc đấu tranh phản kháng : năm 1872 – 1878 công nhân mỏ Takashima bạo động 1881 công nhân dệt bạo động. Vào năm 90 của thế kỉ XIX làn sóng nổi dậy ngày càng nhiều. Trong phong trào rầm rộ đó, Đảng Xã hội dân chủ Nhật Bản ra đời dưới sự lãnh đạo của Katayama Sen 

Katayama Sen xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo. Năm 23 tuổi, ông làm công nhân in ở Tokyo. Ông là người thông minh, cả nghị lực, hoạt động trong phong trào công nhân vào giữa năm 90 của thế kỉ XIX. chủ yếu trong phong trào công nhân sản xuất vũ khí và công nhân luyện gang thép, kì nghệ quân sự. Ông xuất bản báo Thế giới lao động, cơ quan ngôn luận đấu tranh cho quyền lợi phong trào công nhân. Năm 1898, Katayama Sen đà lãnh đạo công nhân đường sắt bài công thắng lợi sau hàng tháng trời. 

Trên cơ sở phong trào công nhân phát triển, các tổ chức công nhân được thành lập để đấu tranh bảo vệ quyền lợi. 

Năm 1898, Hội nghiên cứu chủ nghĩa xã hội ra đời. Năm 1900 đổi thành Hiệp hội xã hội chủ nghĩa. Ngày 20-5-1901, Đảng Xã hội dân chủ Nhật thành lập. Người sáng lập ra tổ chức này là Katayama Sen và Kotoku. Cương lĩnh của Đảng chủ trương đấu tranh hợp pháp nhằm thực hiện một số mục tiêu chính : 

– Không phân biệt chủng tộc và chế độ chính trị, thực hiện bốn biển là nhà. 

– Vì thế giới hòa bình và giải trừ quân bị 

– Xóa bỏ xã hội có giai cấp. 

– Quốc hữu hóa ruộng đất và tư bản. 

Chính phủ Nhật Bản ra lệnh cấm Đảng Xã hội dân chủ Nhật và các báo chỉ hoạt động. Tuy vậy, phong trào đấu tranh của công nhân vẫn phát triển. Công nhân mỏ than, mỏ đồng, các nhà máy quân khí vẫn tiếp tục bãi công. 

Thời kỳ chiến tranh với Nga, phong trào đấu tranh càng mạnh mẽ. Các cuộc biểu tình chống chiến tranh đã nổ ra ở Osaka, Tôkyô. Những người xã hội chủ nghĩa như Kotoku và Sakai đã lập ra Đảng Bình dân và xuất bản báo Bình dân. Nam 1909, bán Tuyên ngôn của Đảng cộng sản của Mác-Ăngghen đã được dịch đang. Những người xã hội chủ nghĩa Nhật Bản tỏ thái độ phản đối cuộc chiến tranh mang tính chất đế quốc vì lợi ích của chính quyền. Chính phủ trấn áp phong trào phản chiến. Đảng Bình dân bị giải tán. Những tổn thất to lớn do chiến tranh gây ra đã đổ gánh nặng lên vai nhân dân. Năm 1905, cuộc đấu tranh bùng nổ dữ dội. Chính phủ ra lệnh giới nghiêm, trấn áp tàn bạo, hơn 600 người bị thương và có 15.000 người bị bắt. Cuộc đấu tranh lan mạnh ở hai thành phố Tokyo và Osaka. 

Trong năm 1907 có tới 57 cuộc bài công Ở xưởng đúc vũ khí Osaka, phong trào công nhân thu hút hàng vạn người tham gia đấu tranh. Công nhân mỏ đồng, công nhân đóng tàu ở Nagasaki cũng bãi công. 

Phong trào phụ nữ đòi tham gia chính trị cũng phát triển. Ý thức của các tầng lớp trong xã hội đều tăng tiến. Năm 1906, Đảng Xã hội dân chủ lập lại với tên gọi là Đảng Xã hội Nhật Bản. 

Trong Đảng Xã hội có sự phân hóa về chủ trương hành động : Kotoku chủ trương hành động bằng bạo lực, Taxôe chủ trương đấu tranh nghị trường, còn Sakai chủ trương kết hợp cả hai. Đại hội đã nhất trí chọn con đường kết hợp giữa đấu tranh bạo lực với đấu tranh nghị trường. 

Ngày 22 – 02 – 1907, chính phủ Nhật giải tán Đảng Xã hội theo luật cảnh sát trị an, đóng cửa tờ báo. Vụ án xét xử những người xã hội diễn ra từ tháng 5-1910 đến tháng 1 – 1911, có 12 người bị tử  hình trong đó có Kotoku và 18 người bị tù chung thân. 

Phong trào công nhân qua một thời gian thoái trào đến cuối năm 1911-1912 lại bùng lên. Cuộc bãi công của 6000 công nhân ở Tôkyô kéo dài 2 ngày làm tê liệt giao thông thành phố. Cuộc đấu tranh thắng lợi, công nhân được tăng lương. Tuy vậy lãnh tụ công nhân Katayama Sen phải trốn ra nước ngoài.