Tình hình 13 bang thuộc địa trước chiến tranh cách mạng
1. Công cuộc xâm chiếm thực dân ở Bắc Mĩ
Các nhà sử học, kinh tế học tư sản đầu cố chứng minh cho luận điểm đầy thiên kiến là lịch sử nước Mỹ bắt đầu từ những sự kiện phát triển địa lí của những nhà thám hiểm châu Âu, và những sự khai phá của di dân châu Âu vào những năm đầu thế kỉ XVI. Thực ra nền văn hóa của Mì bắt đầu từ những cư dân bản địa là người da đỏ, mà sách vở thường gọi là người Anh điêng. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của các nhà nhân chủng học, khảo cổ học, sử học thì người da đỏ vốn từ châu Á thiên di sang khoảng 25000 năm. Họ vượt qua eo biển Bêrinh và Alatka, rồi từ đó tràn vào Bắc Mĩ. Cho đến ngày nay, khảo cổ học chưa phát hiện được một di chỉ nào thuộc thời đại đồ đã cũ.
Những bộ lạc người da đỏ đã sống trên những vùng phủ nhi Bắc Mĩ. Họ đã trải qua những thời kì phát triển với những trình độ khác nhau. Moocgan đã nhận định : tộc Tròqua, Angônkin v.v… ở miền đông sông Mitxuri đang còn trong giai đoạn thấp của thời kì dã man. Nhưng nói chung họ còn sống trong giai đoạn bộ lạc. đất đai sở hữu chung. Việc bầu cử dân chủ công bằng đã tuyển lựa những thủ lĩnh có tài, có khả năng đoàn kết bộ lạc và chiến đấu một cách ngoan cường chống lại sự xâm lược của kẻ đến cướp bóc. Họ làm nghề trồng tỉa, hái lượm, đánh cá và săn bắn, thích nghi với việc khai thác nguồn lợi thiên nhiên. Những kinh nghiệm trồng tỉa thuốc lá, ngô, cà chua và cả kỉ thuật đóng thuyền, chèo thuyền trên sông Bắc Mĩ cũng đã giúp ích cho những người di dân châu Âu đến đây sinh sống Quá trình xâm thực tàn bạo của thực dân châu Âu bắt đầu từ thế kỉ XVI, sau cuộc thám hiểm của Crixtốp Colongbô.
Người Tây Ban Nha là người đầu tiên đặt chân lên Phlorida. Và đến giữa thế kỉ XVI, họ đi sâu vào lục địa châu Mĩ qua Carolina tiến đến bờ sông Mitxixipi rồi sau đó vào vùng Tếchdát năm 1635. Vài năm sau, 1640 người Tây Ban Nha tới miền Niu Mêhicô, Aridonna, Kandat và Caliphodenia.
Đấu thế kỉ XVI, người Pháp bắt đầu chú ý xâm thực vùng đất này. Họ xây dựng cơ sở ở Canada, và năm 1540, đặt thương điểm đầu tiên của Pháp bên bờ sông Hútsôn. Sau đó người Pháp tiến vào vùng đất hổ Giócgiơ (vùng tiểu bang Níu Oóc hiện nay), thành lập vùng đất Ludiana thuộc Pháp vào thế kỉ XVII
Hồi đó, Hà Lan là nước thực dân có tiềm lực. Ngay từ đầu thế kỉ XVII, công ti Đông Ấn Hà đã sang Bắc Mĩ và mở mang công cuộc khai hóa Năm 1614 trên vùng Níu Oóc ngày nay, người Hà Lan đã thành lập đất Níu Amxtécđam. Họ xây dựng cử điểm trên vùng châu thổ các sông Hútsôn, Đolaoa và buôn bán da thú, thuốc lá, Mĩ trở thành nơi buôn bán quan trọng của Hà Lan.
Vùng Bắc Mĩ khi đó bị coi như vùng đất vô chủ nên các nước thực dân châu Âu đều tìm cách xâm chiếm. Thụy Điển cũng tham gia công cuộc xâm thực này. Cuối những năm 30 thế kỉ XVII, họ xây dựng nên vùng đất Thụy Điển mới ở giữa thác của con sông Trenton và mũi Henlopen. Họ dựng đón trú ở gần địa điểm thành phố Uynminton ngày nay. Những người Hà Lan đã đánh bại người. Thụy Điển vào năm 1655.
Tuy vậy công cuộc xâm thực của Anh là mạnh mẽ và có hiệu quả hơn cả. Cuộc đấu tranh gay gắt trong nước Anh trước cuộc cách mạng 1640 là nguyên nhân tạo nên một làn sóng di cư rộng lớn ra nước ngoài tìm đất sống. Họ ra đi vì cuộc sống kinh tế như nông dân, dân nghèo thành thị ; có người ra đi vì tư tưởng bất đồng giữa tín đồ Thanh giáo và Anh giáo ; cũng có trường hợp vì muốn tìm một cuộc sống mới thỏa mãn niềm khao khát về một miền đất là Những nguồn di thực chủ yếu vẫn là nông dân mất đất, không còn cách sinh sống trên đất Anh.
Cuộc khai khẩn thực dân của Anh phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỉ XVII. Nam 1607 người Anh chính thức đặt chân lên vùng đất Viêcginia. Những cuộc di thực của Anh đối với Bắc Mĩ trở nên mạnh mê vào những năm 20 thế kỉ XVIII, khi chính sách tước đoạt ruộng đất ở Anh của giai cấp tư sản quý tộc lên tới đỉnh điểm. Đến năm 1752, Anh đã thành lập được 13 vùng thuộc địa. Nam 1754 trên đất thực dân Anh ở Bắc Mĩ đã có tới 1,3 triệu người. Tiếng Anh trở thành tiếng được phổ biến rộng rãi ở Bắc Mĩ.
Nguyên nhân chính làm cho người Anh thắng lợi trong công cuộc xâm thực là tính ưu tháng của nền kinh tế, xã hội của nước Anh lúc bấy giờ. Vào thế kỉ XVII – XVIII, nước Anh đã vượt qua các nước khác về phát triển kinh tế ; điều kiện đó làm cho nước Anh chiếm ưu thế trong công cuộc bành trưởng ở Bắc Mĩ. Tư sản thương nghiệp Anh chuyên chở hàng hóa của Anh đến châu Mỹ và từ châu Mĩ mang về những nguyên liệu đang cần cho một nền công nghiệp phát triển. Bắc Mĩ có các loại gỗ cần cho công nghiệp đóng thuyền của Anh. Điều này bảo đảm cho Anh có hạm đội mạnh giữ vững được địa vị trên đại dương
Một yếu tố quan trọng khác nữa là cuộc cách mạng ruộng đất ở Anh đa diễn ra một cách tàn bạo và triệt để. Người nông dân Anh mất đất phải tìm đường sang châu Mĩ. Hàng ngàn nông dân Anh 6 ạt di cư sang Mì vào thế kỉ XVIII phải canh tác nông nghiệp, tạo thêm thế vững cho công nghiệp phát triển ở vùng Bắc Mĩ sau này.
Nên chính trị ở Anh hối thế kỉ XVII cũng làm cho công cuộc di dân Anh mạnh mẽ hơn. Cà những người trong tăng lớp tư sản, quý tộc chống đối cũng rời bỏ nước Anh đi khẩn thực. Tất cả những yếu tố trên làm cho cơ sở của Anh ở Bắc Mĩ mạnh hơn, có xu hướng phát triển thành một xã hội hoàn chính. Tất nhiên những yếu tố đó cũng đã tạo nên tiến để cho một cuộc cách mạng tư sản.
2. Những tiền đề của cuộc cách mạng giải phóng và dân chủ
a) Nông nghiệp Bắc Mĩ và xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa
Vào thế kỉ XVII – XVIII, nước Anh coi Bắc Mĩ chỉ là vùng nông nghiệp phụ thuộc chính quốc. Đối tượng bóc lột của Anh ở đây là người da đỏ, nô lệ da đen và cả những người dân di thực. Nhiệm vụ hàng đầu của Bắc Mĩ là cung cấp các loại nguyên liệu và lương thực cho nước Anh.
Ở các vùng phía nam như Viếcginia. Merilen. Carolinna chuyên chống thuốc lá, trồng lúa và chăn nuôi. Những sản phẩm này làm ra để xuất khẩu và phục vụ chính quốc. Ở đây đã xuất hiện nhiều đồn điền rộng lớn, có đồn điền rộng tới 26000 acrơ.
Những con số xuất khẩu thuốc lá, gạo, chàm của các vùng trên có ý nghĩa lớn đối với nền kinh sẽ đủ chuyên môn hóa Năm 1700, Viếcginna cũng thuộc là gồm 4,6 triệu mỗi năm. Năm 1775, SacloxaÔn xuất cũng sao đạt 225.00G BAO NGÔI NÔNG Năm 1775, nam Carilinna xuất cũng 1.150662 phu tràm.
Ở vùng Bắc nước Anh mới (New England), điều kiện khí hậu và đất đai không thuận lợi bằng miền Nam, người ta trồng ngô, lúa mì đen ; còn ở miền Trung thì trồng lúa mì.
Việc canh tác nông nghiệp chủ yếu dựa vào sự bóc lột sức lao động của nô lệ và dân nghèo làm thuê.
Quý tộc tư sản Anh sang Bắc Mĩ muốn duy trì những tàn dư chế độ phong kiến ở đất mới để trở thành đại địa chủ. Vua Anh phân phong những vùng đất mới cho quý tộc, có vùng rộng lớn tới hàng vạn kilômet vuông
Ví dụ: Năm 2683, vua Seclo XI đủ cho Uylian en phần lớn đất Penxinanim ngày may răng khôn 6 vạn kilômét vuông. Nhưng thống đốc thường là những đại địa chủ quý tộc có đến hàng vạn hạ đất đai như thông đúc bang Việcginia.
Việc tập trung ruộng đất trong tay quý tộc và lối bóc lột phong kiến cùng với sự bóc lột kiểu nông nô, nô lệ đã làm cho mâu thuẫn trong nông thôn Bắc Mĩ trở nên gay gắt.
Trước tiên, nông dân nghèo di cư sang Bắc Mĩ bất chấp luật lệ tàn khốc cột chặt họ vào đất đai của địa chủ tư sản đã tự động nổi dậy chống việc nổ dịch hoá, chống nạn cho vay lãi v.v..
Ví dụ: Năm 1676 Ở Điếc giniu nó ra cuộc khởi nghĩa của Bécon ; năm 1689 – 1691 có cuộc khởi nghĩa của Leole ở Nêu hoặc, ở Niu Inglên có cuộc khởi nghĩa Nông dân năm 2001, năm 1765 ở Penkimvania CÒN NỔ ra cuộc đấu tranh gay gắt hơn, rộng khu hơn.
Những vùng đất trống ở phía tây còn nhiều, nông dân tá điền, thành nông dân nghèo tự động đi về phía tây khai khẩn. Họ tạo phong trào của những người “Xquatơ”(2). Bọn đại địa chủ quý tộc tìm cách ngăn cản và phá hoại những cơ sở sinh sống của người “Xquatơ”. Năm 1763 vua Anh ra sắc lệnh cấm khẩn thực vùng đất đai rộng lớn bên kia dãy núi Alégơnit và lưu vực sông Mitxixipi. Năm 1774 nhà vua ra lệnh cấm cư dân 13 bang thuộc địa không được di cư về phía tây. Mâu thuẫn này trở nên gay gắt, sự xung đột giữa chế độ “phácmơ” đang hình thành và phát triển theo yêu cầu của kinh tế Bắc Mĩ với chế độ phong kiến do bọn quý tộc ruộng đất đang có bám chặt đã tạo điều kiện cho sự ra đời chủ nghĩa dân chủ cách mạng Mỹ. Trong tình hình đó, Đại hội lục địa lần thứ nhất vào tháng 9-1774 ở Philadenphi được triệu tập.
Chế độ đồn điền đã làm cho kinh tế nông nghiệp Mĩ mang theo đặc trưng riêng. Chính yếu tố này làm cho lịch sử hình thành nước Mĩ bắt đầu từ chế độ nô lệ, chứ không phải từ sự tự do. Chế độ nô lệ đã là một điểm xuất phát của kinh tế Mĩ, của sự làm giàu của giai cấp tư sản Mĩ.
Nói đến chế độ nô lệ đón điển trước tiên phải nói đến nô lệ da đen. Sự bóc lột nô lệ da đen đặc biệt phát triển ở vùng kinh tế miền Nam. Nó giữ vai trò quan trọng trong nghề trồng bông ở miền Nam và ngay cả trong công nghiệp đóng tàu, công nghiệp dệt….
Những người nô lệ đầu tiên bị thực dân Hà Lan chở sang vào năm 1619. Không lâu sau, việc buôn bán nô lệ ra đời đem lại lợi nhuận lớn có khi lại tới 1000%. Những người nô lệ da đen bị khinh miệt như người hạ đảng. Họ phải lao động kiệt lực và nhân khẩu phấn vô cùng ít ỏi. Họ có thể bị giết, bị đánh đập và đem bán tùy ý chủ. Số dân nô lệ ở 13 bang thuộc địa vào năm 1770 đã có tới 462000 người, có bang như nam Carôlinna chiếm 60% cư dân, Viếcginia 40% cư dân.
Chế độ nô lệ không loại trừ người da trắng. Họ là những tù nhân, con nợ, những người bị tình nghĩ về chính trị và số đồng trẻ em bị bắt cóc bán sang thuộc địa. Họ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chủ nô trong 21 năm, hoặc từ 4 đến 7 năm.
Đất đai khai khẩn ở Mỹ thấm mô hôi và máu của người nô lệ. Những người nô lệ đã chết tới hàng triệu để làm giàu cho bọn chủ. Chế độ nô lệ đã loại trừ chế độ lao động làm thuê, mối quan hệ mới xuất hiện cùng với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng kết quả của lao động lại hoàn toàn phục vụ cho thị trường tư bản. Chính điều này làm hoạt động của chế độ nô lệ lại phục vụ cho mục đích kinh doanh. Đó là đặc trưng của chế độ nô lệ Mĩ. Nhà tư bản, chủ đón điển và chủ nô đã hóa thân thành một. Sự tàn bạo của nó cũng vì đó nhân lên gấp bội. Nô lệ đón điển trở thành một dạng đặc biệt. trong quan hệ nông nghiệp của nước Mỹ trong quá trình đẩy nhanh sự tích lũy tư bản.
b) Sự phát triển kinh tế công thương nghiệp
Các ngành công nghiệp của Bắc Mĩ phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của thị trường nội địa và chính quốc. Ngành đóng thuyền phát triển đặc biệt thuận lợi. Ở đây có nhiều gỗ, ngoài phản khai thác trở về chính quốc cho công nghiệp, các ngành phục vụ hàng hải, vận chuyển đường sông cùng phát triển.
Từ đầu thế kỉ XVII (1624) ở Nin Inglân đã đóng hai thuyền chuyên chở trên sông. Năm 1631 đóng chiếc thuyền hiện đầu tiên. Giữa thế kỉ XV11 đã chế tạo những loại thuyền 300 tấn. Đến thời cách mạng Anh xã tàn thuyền của Anh, có tới 30% đóng ở Bắc Mĩ
Những ngành công nghiệp nặng khác như khai mỏ, luyện sát thép đều tăng tiến. Giữa thế kỉ XVIII đã có 4 xí nghiệp luyện kim, 5 là nấu thép. Những thuộc địa miền Trung và Bắc Mĩ đã sản xuất được sắt tấm đình, neo thuyền. Song ngành gia công kim khí đã bị Anh kìm hãm vì sợ cạnh tranh với chính quốc.
Những ngành công nghiệp dệt vải, dệt len, nghé thuộc da, đóng gày cũng phát triển. Đặc biệt công nghiệp nấu rượu được mở mang, không chỉ phục vụ cho nội địa mà còn là hàng trao đổi, buôn bán có lợi. Họ đem cả rượu sang châu Phi để đổi lấy nô lệ da đen.
Ngành thương nghiệp ở 13 bang thuộc địa cùng với công nghiệp, nông nghiệp sản xuất hàng hóa đã phát triển. Đặc biệt thương nghiệp. phát triển ở Niu Inglãn. Ngành buôn bán da lông thú, ngành đánh cá, khai thác gỗ, thuốc lá, lúa mì, chàm đều chiếm vị trí quan trọng. Giá trị xuất khẩu không ngừng tăng.
Trong những năm 170 – 1710, trung bình mỗi năm 13 hung thuộc địa đã xuất sang Anh sẽ hàng trị giá 205.783 hàng Anh. Nhưng s HÌNH KIM, giá trị hàng xuất khẩu của thuộc địa Bắc Mỹ lên tới 1.044.591 bảng.
Thuộc địa còn buôn bán trực tiếp với các nước Tây Ban Nha, Pháp, Hà Lan, Tây Ấn.
Nhưng công thương nghiệp thuộc địa không tránh khỏi mâu thuẫn với chính quốc. Sự cạnh tranh dẫn tới việc can thiệp của chính quốc nhằm hạn chế sự phát triển công thương nghiệp thuộc địa. Khuynh hướng của các thuộc địa muốn tách khỏi sự ràng buộc phi lí với nền kinh tế Anh ngày càng rõ rệt. Chính phủ Anh tìm mọi cách ngăn chặn sự phát triển công thương nghiệp Bắc Mĩ, muốn các thuộc địa chỉ là thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính quốc và là vùng cung cấp nguyên liệu, thực phẩm cho Anh. Do vậy, nhiều đạo luật ban hành nhàm cấm phát triển công thương nghiệp thuộc địa. Năm 1750, ‘đạo luật về sắt” cấm xây dựng nhà máy cán sắt thép, xưởng rèn lớn, lò nấu thép. Chính phủ Anh còn ngăn cấm Bác Mi buồn bản với các nước khác cũng như giữa các thuộc địa với nhau. Chính sách thuế khóa ngày càng gây khó khăn lớn cho sản xuất công nghiệp và thương nghiệp Bắc Mĩ. Sự chống đối lại chính quốc để phát triển là điều tất nhiên. Giai cấp địa chủ tư sản, tư sản công thương nghiệp bất mãn trước những trở lực do sự cạnh tranh của tư sản chính quốc gây nên. Mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa thuộc địa và chính quốc, giữa đòi hỏi phát triển của Bác Mì và sự ngăn cản phi lí của chính quyền Anh nhất định sẽ dẫn tới cuộc đấu tranh quyết liệt.
c) Chính sách thống trị của Anh và sự hình thành dân tộc tư sản Bắc Mĩ
Về tổ chức chính trị, thực dân Anh chia các thuộc địa Bắc Mĩ thành hai loại. Những bang được hưởng đặc quyền của nhà vua như : Merilen, Rốtailen, Connechticót, Penxinvania, Đolaoa là những bang tự trị. Ở các bang khác, nhà vua và chính phủ Anh trực tiếp cử các thống đốc cai trị.
13 bang thuộc địa không có luật pháp riêng mà phải tuân theo luật pháp Anh. Đại diện của nhà vua nắm quyền chỉ huy quân đội. hải quân, chọn nhân viên hành chính. Việc bầu cử chỉ hạn chế trong tầng lớp quý tộc giàu có chiếm từ 2 đến 9% dân cư. Những người nô lệ, người da đỗ đều không có quyền công dân. Quyền tự do dân chủ của dân tự do, công nhân và ngay cả các “phácmơ” cũng rất hạn chế.
Cư dân Bắc Mỹ là dân dĩ thực, vốn thích sống tự do ở những vùng đất hoang. Họ không có thói quen kính trọng nhà vua. Họ không có quyển cử đại biểu trong nghị viện Anh nên họ cùng cho ràng minh không có nghĩa vụ nộp thuế. Trong lúc đó, từ sau năm 1763, chính phủ Anh lại tăng thêm các yêu sách về tài chính, tập trung vào việc thu thuế. Bọn thống đốc, bọn chúa đất thực dân chuyên chế độc đoán là lực lượng bảo thủ phản động chống lại dân chủ tự Nhưng một bộ phận chủ điển, các nhà kinh doanh, trí thức tự sản vì quyền lợi của mình cũng có xu hướng dân chủ. Thành phần cư dân thuộc địa vào thế kỉ XVIII cũng gia tăng những yếu tố mới. Cùng với người Anh có người Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Ailen. Những nguồn gốc khác nhau làm cho họ không thể nào quen với trật tự của Anh. Họ quân tụ với nhau và tạo nên một cộng đồng mới dẫn dần dùng ngôn ngữ chung là tiếng Anh. Ngay cả người gốc Anh sinh sống ở Bắc Mĩ cũng nảy sinh mối mâu thuẫn đòi tách khỏi chính quốc.
Yếu tố quyết định sự hình thành dân tộc ở Bắc Mĩ chính là nền kinh tế phát triển toàn diện đã dẫn tới khả năng tự chủ. Thị trường dân tộc dân dẫn hình thành. Sự trao đổi giữa các thuộc địa đòi hỏi sự thống nhất giá cả, luật lệ và thuế khóa. Việc phát triển giao thông đường sá, bưu điện làm cho 13 bang thuộc địa gần bó với nhau hơn. Sự gần gũi về quyền lợi và sự phát triển cùng trên một dải đất đã khiến cho những biến động xã hội, chính trị đều tác động đến nhau. Cư dân thuộc địa đã bắt đầu hình thành ý thức về vùng lãnh thổ riêng. Phong trào của Bécon ở Viếcginia năm 1676 đã được sự ủng hộ của Cardinna Bác. Cuộc đấu tranh của các “phácmơ ở Carôlinna Bắc được sự tiếp sức của nhân dân vùng Niu Inglan.
Sự phát triển kinh tế, xã hội đã thúc đẩy nền văn hóa ở Bắc Mà phát triển. Các trường học, báo chí, văn nghệ, triết học đều phát triển, tạo nên một nền văn hóa Mỹ tách dẫn với chính quốc. Tâm lý Mỹ được hình thành trong quá trình sinh tụ trên vùng đất mới giữa người Anh, Pháp, Đức, Hà Lan v.v…
Như vậy, sau một thời gian dài di thực, những người dân Bắc Mì có nguồn gốc nhiều quốc tịch khác nhau đã trở thành một khối cộng đóng ổn định, thành lập trong quá trình lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và cấu tạo tâm lí biểu hiện trong cộng đồng văn hóa. Như vậy là một dân tộc đã được hình thành ở Bắc Mĩ với những điều kiện vững chắc của nó. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi cho một quan hệ xã hội mới là điều không thể tránh khỏi. Trong cuộc đấu tranh này, lực lượng quản chúng nông dân, thợ thủ công, nô lệ trở thành lực lượng chính, giai cấp tư sản dân chủ là bộ phận lãnh đạo phong trào đấu tranh.
d) Mâu thuẫn dẫn tới chiến tranh.
Sự lớn mạnh về kinh tế và tiềm năng phát triển đối dào về mọi một làm cho Bắc Mỹ ngày càng mâu thuẫn sâu sắc với chính quốc. Chế độ nô lệ da đen, da trắng và sự bóc lột lao động trở thành lực cần sự phát triển xã hội. Nhân dân đấu tranh đòi giải phóng, đòi tự do phát triển kinh tế và văn hóa. Nhưng nước Anh không muốn mất những nguồn lợi đã từng khống chế, muốn Bắc Mĩ luôn là thuộc địa của mình. Tảng lớp tư sản, chủ đồn điền và tiểu tư sản ở Bắc Mĩ trở thành lực lượng tham gia lãnh đạo cuộc chiến tranh giành độc lập.
Vào tháng 5-1756 cuộc chiến tranh giành giật đất đai ở Bắc Mỹ, Anh và Pháp bắt đầu, lịch sử gọi là chiến tranh Bảy năm (1757 – 1763). Trong cuộc chiến tranh này, Anh nắm quyền bá chủ trên biển, đã huy động được tiềm năng quân sự trội hơn nên đã chiến thắng. Nam 1763 Pháp thất bại phải kí hòa ước Pari (10–2–1763), theo đó, Canada thành đất thuộc quyền Anh. Vì mối liên quan ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh này. Tây Ban Nha cũng phải mất cho Anh vùng Phlorida.
Sau khi lũng đoạn được vùng Bắc Mi, Anh tăng cường chế độ cai trị chuyên chế
Từ những năm 50 của thế kỉ XVII (1651), luật hàng hải giành độc quyền chuyên chở sản phẩm Bắc Mĩ sang Anh và ưu đãi hàng Anh được nhập vào Bắc Mĩ đã làm tăng mâu thuẫn giữa Anh với tư bản Mi. Đạo luật về ruộng đất năm 1763 ngăn cấm dân di thực đi về phía tây đến vùng châu thổ sông Mitxixipi. Cuộc đấu tranh chống lại đạo luật ruộng đất diễn ra quyết liệt. Những người buôn da và lông thú, những chủ đầu cơ đất, những kiểu dân cùng đường đang hi vọng một khoảnh đất, nay bị đạo luật khác nghiệt của chính quốc ngăn trở, nên rất bất mãn.
Vào năm 1764, các sắc luật về thuế mới đánh vào hàng nhập càng, về việc chặn bắt buôn lậu, về thuế đường nhập khẩu, và việc cấm thuộc địa phát hành tiền tệ đã làm cho mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa ngày thêm gay gắt.
Nhân dân Bắc Mĩ càng bất bình hơn khi chính phủ Anh đặt ra thuế tem (Stemp act) đánh vào các kiện hàng nhập khẩu. Thuế tem đụng chạm đến mọi hoạt động kinh doanh và ngay cả đối với các loại văn hóa phẩm. Thực dân Anh muốn bắt người dân Mĩ đóng góp một số tiền chừng 100.000 bảng Anh để có thể duy trì một đạo quân 10.000 người. Việc đánh thuế tem gây nên mối công phần lớn. Ngòi lửa đấu tranh đấu tiên bùng lên ở Bôxtơn. Những nhân viên phụ trách ngành này bị quần chúng đấu tranh, đánh đập, bởi nhựa đường dính lồng chim đấy người. Các cơ quan đánh thuế tem bị phá hủy. Bôxtơn là thủ phủ của Masaxuxét phát đi tín hiệu đấu tranh. Phong trào dãy lên khắp đất nước.
Căn cứ theo đề nghị của bang Masaxuxét, đại hội bàn về thuế của các thuộc địa được triệu tập ở Niu Oóc ngày 7-10-1765. Đại hội gồm đại biểu 9 bang về dự và quyết nghị không nộp các thử thuế do Quốc hội Anh quyết định. Đó là sự phản kháng nhằm đòi quyền tự quyết về kinh tế. Cuộc đấu tranh làm cho chính quyền Anh phải bãi bỏ thuế tem, song lại thay bằng thứ thuế khác. Nam 1767 Anh lại ban hành luật về thuế chè và các thứ thuế khác. Nhưng nhân dân thuộc địa phản đối quyết liệt, chính phủ Anh chỉ còn giữ lại thuế chè.
Trong cuộc đấu tranh của nhân dân, khẩu hiệu : “Tự do và tư hữu”, “Thống nhất hoàn toàn hay là chết” thành ngọn cờ tập hợp lực lượng. Những hội kín ra đời liên kết lực lượng và thống nhất tư tưởng. Tổ chức có tính chất tiến bộ lúc bấy giờ là “Hội những người con tự do” (Sons of Liberty). Nhiệm vụ của Hội là đấu tranh chống ách áp bức của nhà vua và Quốc hội Anh, phản ánh yêu cầu thống nhất của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh. Chính vì vậy, thành phần tham gia tổ chức khá rộng rãi. Giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công nhân, thợ thủ công, người đánh cá, trí thức tiểu tư sản đều gia nhập Hội. Tiêu biểu cho tư tưởng tự do là Tômát Ghépphicson (1743 1826).
“Những người con tự đẻ” lấy tư tưởng của Lôcke và của Giôn Minton (J. Locke, John Milton) về quan niệm một nhà nước tư sản làm mục tiêu đấu tranh. Tác phẩm của Locke -Tiểu luận về chính quyền dân sự xuất bản năm 1690 đã cung cấp cho cuộc đấu tranh giành độc lập Bắc Mi một nội dung lí thuyết về nhà nước tư xâm Đó chính là tư tưởng cách mạng tư sản Anh Lan sang Mỹ, được chấp nhận và được áp dụng trong thực tiễn. Nó nêu lên nhiệm vụ của nhà nước là bảo vệ tính mạng, từ do và tài sản của nhân dân. Quyền lục chính trị là của dân và dân ủy thác quyền lực đỏ cho chính phủ Chính phủ chỉ là đại diện của dân, vì thế có bổn phận thực thi quyền hành do nhân dân giao phó. Nhưng nếu chính phủ vi phạm quyền tự nhiên” của công dân thì công dân có quyền và trách nhiệm phải lật đổ chính phủ
Những phần tử tư sản, địa chủ có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn với chính quốc đã hình thành tư tưởng đối lập chính quyền Anh. Đại diện cho tầng lớp này là Oasinhton (Washington, 1732-1799). Bản thân ông là một chủ đón điển – chủ nô giấu có ở Viêcginia.
Từ năm 1767 các loại thuế chè, rượu, hoa quả vv.. ngày càng cao. Việc kiểm soát tàu buôn ngặt nghèo và việc tăng cường quân đồn trú không chế thuộc địa một cách gắt gao đã đẩy nhanh quá trình cách mạng hóa quần chúng thuộc địa.
Sự kiện chè Bôxtơn bùng lên thành ngọn lửa trực tiếp của cuộc chiến tranh giành độc lập Bắc Mĩ mà thực chất là cuộc cách mạng tư sản dân chủ, một cuộc cách mạng mang tính chất đấu tranh cho tự do.