Chế độ thống trị của thực dân Hà Lan cuối thế kỉ XIX – Đầu thế kỉ XX. Phong trào dân tộc Indonesia
1. Chế độ thống trị của thực dân Hà Lan cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Chỉ trong 40 năm thi hành chế độ cưỡng bức trồng trọt, tư bản Hà Lan đã thu được món lợi nhuận bằng cả số thu nhập của Công từ Đông Ấn Hà trong 200 năm. Nhờ có số tiền tích lũy to lớn đó, vào những năm 70 của thế kỉ XIX, nên công nghiệp Hà Lan phát triển khá mạnh, thị trường nhỏ bé trong nước và thị trường thuộc địa tiêu điều không thể đáp ứng được nhu cầu của chủ nghĩa tư bản. Đại đa số tư bản Hà Lan đòi chính phủ phải có biện pháp mới, phải mở cửa Inđônêxia để được tự do kinh doanh. Nhưng một vấn đề quan trọng được đặt ra là hàng hóa vào thì ai mua ? Nông dân Inđônêxia bị chế độ cưỡng bức trồng trọt, bóc lột đến tận xương tủy làm sao mua nổi hàng hóa, thị trường làm sao mở rộng được. Những chính sách trên sẽ trở thành vô nghĩa nếu như chính quyền thuộc địa không xóa bỏ chế độ cưỡng bức trồng trọt. Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Hà Lan yêu cầu xóa bỏ chế độ này. Nhân dân Inđônêxia, đại đa số là nông dân cũng rất căm thù chế độ bóc lột tàn tệ này.
Hơn nữa, bọn tư bản Anh, Mỹ đã nhảy vào cạnh tranh buộc thực dân Hà Lan phải nghĩ đến việc thay đổi chính sách bóc lột. Chính vì lý do đó, năm 1850 Hà Lan bỏ độc quyền thương mại trên biển Indonesia.
Năm 1860, chính quyền thuộc địa mở 16 cảng cho tàu ngoại quốc vào, bỏ lệnh bất nhân dân trồng cây công nghiệp và cây hương liệu như chè, thuốc lá, chàm, hổ tiểu. Năm 1870, thủ tiêu toàn bộ chế độ cưỡng bức trồng trọt và chấm dứt độc quyền thương mại, bước vào thời kỳ tự do kinh doanh ở Inđônêxia.
Chính quyền thuộc địa còn để ra ‘chính sách ruộng đất”, khẳng định quyền chiếm hữu ruộng đất của nông dân, quy định phạm vi ruộng đất thuộc quyền chính phủ. Chính sách này nhằm nâng cao sức sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ và thị trường khai thác nguyên liệu. Ruộng đất của chính phủ để cho bọn tư bản Hà Lan và tư bản nước ngoài khai thác theo chế độ đồn điển. Đến trước đại chiến thứ nhất, tư bản nước ngoài đã chiếm 1/4 diện tích trồng trọt, lập ra 2400 đồn điền trồng cây công nghiệp như ký ninh, mía, thuốc lá, oliu và đặc biệt là cây cao su. Tuy Hà Lan ra lệnh cấm bán và cấm cho thuê đất đai dài hạn đối với người ngoại quốc, nhưng trên thực tế, bọn thống trị vẫn cho tư bản nước ngoài mặc sức hoành hành.
Không có đất cày cấy, người nông dân Indonesia rơi vào tình trạng thất nghiệp và nửa thất nghiệp, buộc phải bán sức lao động cho các đồn điền của người nước ngoài.
Từ khoảng năm 1895 trở đi, các ngân hàng xuất hiện chi phối nền kinh tế Indonesia. Công nghiệp Inđônêxia đặc biệt là công nghiệp mỏ, làm đường, vận chuyển dấu do các công ty Billiton, Mat Sippi và công ty mỏ thiếc Banka giữ đặc quyền. Các công ty hàng hải Hà Lan lũng đoạn quyền vận chuyển đường biển. Công ty đường sắt Ấn – Hà nắm quyền xây dựng và khống chế việc vận chuyển đường sắt. Năm 1872 đường sắt từ Batavia đi Băng Đung, từ Semarang đi Suricata được khai thông. Sau đó, chính phủ thuộc địa cũng bắt tay vào công cuộc xây dựng và quản lí đường sắt vì đây là công việc khá nặng nề, đòi hỏi phải có áp lực chính quyền thì mới có nhân công và đất để làm đường. Những đoạn đường từ Surabaya đi Pasuruan, Malang, từ Suracácta đi Mốtgiôkécta, từ Kêđiriđi Blita, từ Bangđung đi Giôgiacácta được xây dựng nhanh chóng Tốc độ khai thác và vận chuyển phản ánh rõ rệt nhu cầu phát triển đường sắt cho thấy vào sau năm 1870, nền kinh tế thực dân ở Inđônêxia phát triển mạnh mẽ hẳn lên.
Đến năm 1905, tư bản Hà Lan dùng chính sách mở cửa để điều hòa mâu thuẫn giữa các đế quốc với nhau. Anh, Mỹ và các nước tư bản khác được thể ùa vào Inđônêxia, gây ảnh hưởng bất lợi cho phong trào đấu tranh ở Inđônêxia. Cách mạng Indonesia gặp một hợp thể kẻ thù có lực lượng về nhiều mặt. Đế quốc Anh, Mỹ nhờ vào tiềm lực kinh tế lớn ngày càng lấn tới trong các công ti cổ phần. Đương nhiên về phía Hà Lan, chính sách mở cửa là biện pháp duy nhất có thể giúp Hà Lan giải quyết những bế tắc về chính trị cũng như về kinh tế. Sự kinh doanh hùn vốn này sẽ giúp Hà Lan khắc phục tình trạng thiếu tiền mà điều quan trọng là có nhiều vốn thì mới có nhiều thiết bị máy móc tốt hơn, quy mô sản xuất khai thác sẽ lớn hơn, lợi nhuận sẽ thu được nhiều hơn. Chính sách mở cửa đồng thời cũng sẽ giúp Hà Lan giữ được Inđônêxia bằng thế quân bình giữa các đế quốc, và có thêm lực lượng cùng trấn áp các cuộc nổi dậy bên trong
Indonesia biến thành thị trường chung của các đế quốc, Anh, Mỹ hoạt động rất ráo riết. Đến trước đại chiến thứ nhất, ở Indonesia có hai công ty dấu lửa nổi tiếng là : Công tỉ BPM (Bataasche Petroleum Maatschappij) trong đó tư bản Hà Lan chiếm 60% số vốn, tư bản Anh chiếm 40%. Công ty N.K.P.M (Nederlands Koloniale Petroleum Mij) do tư bản Mỹ lũng đoạn. Số lượng dầu khai thác hàng năm rất lớn.
Trong thời kì này tốc độ khai thác và sản xuất tăng rất nhanh.
Việc tăng cường đầu tư, khai thác, bóc lột nhân công, vơ vét nguyên liệu và kìm hãm nền công nghiệp dân tộc là hai mặt thống nhất của chính sách bóc lột thuộc địa của đế quốc đối với Inđônêxia. Bọn chúng tìm mọi cách ngăn cản việc phát triển công nghiệp của Indonesia, không cho nó phát triển thành công nghiệp hiện đại. Các xí nghiệp của người bản xứ chỉ được phép hoạt động trong phạm vi hết sức hạn chế, như trong ngành làm mũ, dệt chiếu, đan rổ rá, dệt vải Ba-tích và làm thuốc lá Cơrơtếch v.v… Chính quyền giám sát gắt gao hàng rào quan thuế. Những xí nghiệp hơi lớn một chút, phần đồng cũng không phải do người Indonesia nằm mà ở trong tay người Ả Rập, Trung Quốc và người châu Âu.
Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của sự xâm nhập của kinh tế để quốc, nền kinh tế Indonesia bắt đầu phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Kinh tế tự nhiên của Indonesia bị phá vỡ.
2. Phong trào dân tộc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Vào cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, xã hội Inđônêxia có nhiều biến đổi. Việc đầu tư bóc lột của tư bản đế quốc ngày càng mạnh mẽ, về khách quan đã tạo nên những tiến để xã hội cho giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ra đời, ý thức dân tộc phát triển. Phong trào đấu tranh của nông dân với sự phát triển của chính sách kinh doanh đồn điền của bọn đế quốc đã mang theo màu sắc đấu tranh dân chủ, đòi cải thiện đời sống.
Đặc biệt phản ánh rõ nhất trình độ đấu tranh của nông dân Inđônêxia là phong trào nông dân do Samin lãnh đạo vào khoảng năm 1890. Samin không thừa nhận nền thống trị của Hà Lan, cổ động nhân dân, chủ yếu là nông dân, chống lại những thứ thuế vô lý của bọn thực dân. Học thuyết của ông là sẽ xây dựng một đất nước mọi người có việc làm, mọi người đều được hưởng hạnh phúc.
Trong xã hội lí tưởng đó, đơn vị của xã hội là công xã nông thôn, của cải mọi người làm ra đều hưởng chung, ruộng đất là của chung Tư tưởng của Samin thể hiện chủ nghĩa bình quân, xuất hiện với tư cách đối lập chế độ xã hội bất công, nên được quán chúng nông dân tán đồng. Trong lúc những trào lưu tiến bộ hơn chưa thể xuất hiện, thì chính tư tưởng này đã gây tác dụng tích cực nhất định. Nó là vũ khí tuyên truyền, động viên, tổ chức quần chúng nông dân chống lại ách áp bức bóc lột bất công. Nó đòi hỏi mở đường cho sản xuất xã hội phát triển.
Nhưng thực tiễn đã phá vỡ sự không tưởng của Samin. Nhất là từ sau năm 1905, trước làn sóng cách mạng dân chủ thức tỉnh nhiều dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới, phong trào cách mạng của nhân dân Inđônêxia nói chung và phong trào đấu tranh của nông dân nói riêng đều có nhiều nét mới. Những biện pháp đấu tranh mạnh mẽ hơn đã xuất hiện, nông dân khởi nghĩa khắp nơi. Chính bản thân Samin cũng bị lối cuốn vào phong trào đó. Đế quốc Hà Lan phải tốn nhiều công sức mới trấn áp được phong trào này. Samin cùng các đồng chí của ông bị bắt đi đày.
Trong giai đoạn này, một hiện tượng mới có tầm quan trọng hơn là do sự phát triển của công nghiệp ở Inđônêxia, một giai cấp mới đã ra đời : giai cấp vô sản Inđônêxia. Giai cấp vô sản Inđônêxia cũng như hầu hết giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa châu Á đều ra đời sớm hơn so với giai cấp tư sản dân tộc. Công nhân Indonesia đứng về mặt dân tộc là kẻ bị nổ dịch, đứng về mặt giai cấp là kẻ bị tư bản bóc lột, đồng thời còn bị giai cấp phong kiến áp bức. Chính vì lý do trên, giai cấp vô sản Inđônêxia đã có một lịch sử đấu tranh rất sớm và rất anh dũng. Cùng với sự thức tỉnh của dân tộc, chịu ảnh hưởng của phong trào cách mạng dân chủ và vô sản trên thế giới, ý thức giác ngộ giai cấp và giải phóng dân tộc của giai cấp công nhân Indonesia bắt đầu phát triển.
Năm 1905, Hiệp hội công nhân đường sắt thành lập.
Năm 1908, Hiệp hội công nhân xe lửa (S.S.B) thành lập.
Phong trào công nhân Indonesia ngày càng phát triển,nhất là khi tư tưởng cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác theo công nhân và thủy thủ trên những chuyến tàu của tư bản Hà Lan truyền vào Indonesia.
Tháng 12-1914 “Liên minh xã hội dân chủ Inđônêxia thành lập ở Semarang do một số trí thức giác ngộ người Hà Lan và Indonesia lãnh đạo. Tổ chức này tuyên truyền chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân. Nó là cơ sở để Đảng Cộng sản Inđônêxia ra đời năm 1920. Giai cấp công nhân lúc này có chừng 6 triệu và trong đó, 50 vạn là công nhân công nghiệp hiện đại, 316.200 công nhân vận chuyển.
Cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã ảnh hưởng to lớn đến phong trào công nhân và phong trào dân tộc Inđônêxia. Những tổ chức quần chúng công nhân lan rộng khắp nơi. Tháng 5 năm 1920 “Liên minh xã hội dân chủ Indonesia” đổi thành “Đảng Cộng sản Inđônêxia”. Tháng 12 năm đó, Đảng cộng sản Inđônêxia gia nhập Quốc tế cộng sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Inđônêxia đánh dấu một bước trưởng thành mới của giai cấp công nhân Indonesia nói riêng và phong trào dân tộc Inđônêxia nói chung. Đảng Cộng sản Inđônêxia ra đời và những hoạt động cách mạng của nó đã tác động mạnh mẽ đến phong trào giải phóng dân tộc.
Giai cấp công nhân ra đời không lâu thì giai cấp tư sản dân tộc Inđônêxia cũng thành hình. Hoạt động của giai cấp tư sản dân tộc Inđônêxia chủ yếu là truyền bá tư tưởng dân chủ, lay động tinh thần dân tộc, góp phần thức tỉnh dân tộc. Tầng lớp trí thức tiếp thu văn hóa, và tư tưởng dân chủ tư sản Âu châu đóng vai trò tích cực nhất định trong phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX.
Năm 1908, tổ chức Budi Utomo (Lương trị xã) thành lập ở Giava. Đây là tổ chức của trí thức, chủ yếu là đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt xã hội, đòi phát triển văn hóa. Tác động của tổ chức này không thật sâu rộng lắm.
Năm 1909, “Hiệp hội sinh viên Ấn” do sinh viên Indonesia theo học ở Hà Lan tổ chức, năm 1922 đổi tên là “Hiệp hội sinh viên Indonesia” (Indonesische Vereniging). Ban đầu tiến hành truyền bá tư tưởng dân chủ, dần dần phát triển thành một tổ chức chính trị rõ rệt, đấu tranh đòi độc lập dân tộc.
Năm 1911 “Hội thương nhân Hồi giáo” thành lập với mục đích đấu tranh bảo vệ quyền lợi thương nhân. Cơ sở quần chúng của Hội khá rộng rãi, bao gồm thị dân, nông dân và hàng vạn công nhân tham gia. Tác động đấu tranh của Hội khá lớn, nhưng vì thành phần phức tạp, nội bộ chia thành bè phái, nên tự nó bị suy yếu đi nhiều. Phải đến khi thành lập Đảng dân tộc Inđônêxia (1927) thì giai cấp tư sản dân tộc mới thực sự đóng vai trò người lãnh đạo phong trào giải phóng đất nước.