Xã hội Mã Lai và sự xâm phạm của thực dân Phương Tây
1. Xã hội Mã Lai trước khi thực dân phương Tây xâm lược
Án ngữ cửa ngô của con đường qua lại giữa nhiều đại dương, bán đảo Mã Lai chiếm một vị trí địa lí lịch sử đặc biệt. Nơi đây từng chứng kiến sự gặp gỡ những trào lưu văn minh phương Đông. Nền văn minh Ấn Độ, Trung Hoa đã để lại đây nhiều dấu ăn. Vào thời kì cận đại, có biển Ma Lai trở thành nơi thông thương quan trọng giữa châu Á phì nhiêu và châu Âu tư bản đang khao khát thị trường, vì thế Mã Lai trở thành miếng mối tranh chấp giữa các nước tư bản.
Về chính trị, Ma Lai là một bán đảo gồm nhiều vương quốc, trong lịch sử hầu như chưa bao giờ thống nhất. Những vương quốc nhỏ này cô lập với nhau, tự làm yếu mình đi rất nhiều nên thường bị thế lực bên ngoài xâu xé. Ma Lai bị kẹt giữa hai thế lực phong kiến tương đối mạnh là Xiêm và Inđônêxia. Xiêm từ phương Bắc xuống và Inđônêxia từ Xumatơra, Giava lên. Sự phân cát phong kiến trên bán đảo đã tạo nên tình hình là một số vương quốc lớn mạnh hơn luôn luôn dùng quân sự bắt một số vương quốc nhỏ bé thần phục. Vương quốc Giôhọ đã từng khống chế một vùng rộng lớn phía nam bán đảo và cả một phần đất đai của Xumatora.
Ảnh hưởng của đạo Ítxlam ở vùng này rất mạnh. Vào thế kỉ XIV – XV, đạo Ítxlam đã giành được địa vị thống trị. Các quốc vương mang danh hiệu Suntan được tôn là người thay chúa Ala trị vì vương quốc. Suntan có quyền hành tuyệt đối, thống trị cả phấn hồn lẫn phần xác của thần dân. Những chúa phong kiến ở đây tìm thấy trong đạo Ítxlam cái giáo lí vững mạnh để củng cố quyền lực phong kiến của mình. Đạo Ấn Độ bị thay thế.
Trước khi bị thực dân phương Tây xâm chiếm, quan hệ phong kiến và chế độ kinh tế tự nhiên chiếm địa vị thống trị. Đại đa số cư dân trong nước là nông dân bị cột chặt vào đất đai bởi quan hệ ruộng đất phong kiến và sự phụ thuộc về thân phận. Chúa phong kiến dùng tôn giáo khẳng định quyền lũng đoạn ruộng đất và quyền bóc lột “thiêng liêng của mình.
Nền kinh tế tự nhiên lạc hậu, tính chất đóng kín và phân tán của công xã nông thôn, ảnh hưởng của tăng lữ đạo Ítxlam, sự bóc lột nặng nề của địa chủ, tất cả đã gây tác hại lớn cho việc phòng thủ đất nước sau này.
Dân số Mã Lai vào thế kỉ XVII – XVIII không quá 25 vạn người. đại đa số làm nghề nông, nghề cá. Họ tụ tập theo dọc hai bên triển sông, ven biển và những nơi đất đai phì nhiêu như Pahang, Perak. Kelantan, Mua, Bênam, Torenganu v.v.. và những vùng ven biển phía tây, phía đông giàu có, đặc biệt những cánh đồng phía bắc phi nhiều. Nhưng cho đến thời kì cận đại, đời sống của nhân dân Ma Lai còn thấp, kinh tế ít phát triển, trừ những cửa khẩu buôn bán sầm uất như Malacca. Nền kinh tế phong kiến tự nhiên vẫn thống trị trong toàn xã hội.
Ngoài việc trồng lúa ra, từ thời trung thế kỷ, người Mã Lai đã biết trong các loại cây hương liệu để bán cho thương nhân nước ngoài. Nhưng quy mô buôn bán không lớn, chỉ là nguồn thu nhập phụ của nông dân
Thủ công nghiệp của Ma Lai tương đối phát triển, chủ yếu phục vụ đời sống xa hoa của vua chúa, cho những buổi lễ hội cung đình. Nghề kim hoàn và các kỹ thuật chạm trổ tinh vi đạt đến trình độ điêu luyện. Những người thợ thủ công Mã Lai nổi tiếng trên thế giới về kỹ xảo làm đồ trang sức bằng vàng ngọc châu vv.. Tuy vậy, sản xuất thủ công nghiệp của Mã Lai trong giai đoạn này không đóng vai trò gì lớn trong nền kinh tế xã hội.
Nông dân và thợ thủ công Mã Lai hoàn toàn không có quyền lợi chính trị. Họ là người sản xuất của cải cho xã hội và là tăng lớp bị áp bức bóc lột tàn tệ. Thuế má nặng nề và những quan hệ ràng buộc phức tạp của phong kiến làm cho đời sống của họ rất nghèo khổ. Đồng thời nổi khổ đau do chiến tranh liên miền giữa các vương quốc gây ra và mọi gánh nặng phí tổn đều đổ lên đầu nông dân và thợ thủ công. Từ khi bọn thực dân phương Tây đến xâm lược Mã Lai, đời sống nhân dân càng thêm điều đứng.
2. Sự giành giật ban đầu giữa thực dân Bồ Đào Nha và Hà Lan ở Mã Lai
Những vùng kinh tế của Mã Lai cũng trải qua các giai đoạn lịch sử thăng trầm phức tạp. Thế kỉ XIII – XIV, Singapore đã từng nổi tiếng là thành phố buôn bán sầm uất, có nhiều quan hệ với nước ngoài. Nhưng trong cuộc chiến tranh với vương quốc Giava, thành phố này bị phá hủy hoàn toàn. Vì vậy trong giai đoạn sau, Malacca lớn lên và thay thế Singapore. Sự lớn mạnh về kinh tế dán dần đưa Vương quốc Malacca lên vị trí hàng đầu trong số các vương quốc trên bán đảo.
Với vị trí kinh tế quan trọng. Malacca đã trở thành miếng mồi hấp dẫn đối với bọn tư bản phương Tây. Thực dân Bồ Đào Nha là kẻ đi đấu trong công cuộc xâm lược vùng này.
Ngày 2-5-1511 Anbukéc dẫn 19 chiến thuyền cùng 1400 tên lính Bồ Đào Nha và Ấn Độ từ Côsin tiến về Malacca. Cuộc chiến tranh thực dân tàn bạo bắt đầu. Nhân dân Malacca dưới sự chỉ huy của Suntan Mamua đã chiến đấu rất dũng cảm. Có lúc ông dẫn đầu hàng ngàn quân với đàn voi chiến xung trận. Đội quân viễn chinh của Bổ Đào Nha nhiều lần bị thiệt hại nặng tưởng như không thể nào chinh phục nổi xứ này. Cuộc chiến tranh kéo dài hàng tháng trời, nhưng cuối cùng nhờ ưu thế kỉ thuật, quân Bồ Đào Nha đã hạ được thành Malacca. Cuộc chiến đấu còn kéo dài trong nhiều năm sau nhưng cuối cùng bị dập tắt.
Sau khi chiếm được Malacca, Bồ Đào Nha biến nó thành cứ điểm buôn bán hương liệu ở phương Đông. Đồng thời lợi dụng vị trí chiến lược của Malacca làm bàn đạp tiến ra các vùng khác. Đến thế kỉ XVI, thực dân Bồ Đào Nha trở thành kẻ lũng đoạn lớn nhất về hương liệu và hàng hóa phương Đông ở châu Âu. Trong hàng trăm năm, chúng khống chế cả một vùng ảnh hưởng rộng lớn gồm các địa điểm ở châu Phi, Ấn Độ, Trung Quốc, Iran, Ma Lai, Indonesia, Nam Mĩ v v… Malacca giữ một vị trí kinh tế và chiến lược vô cùng quan trọng đối với thực dân Bồ Đào Nha.
Nhưng đến giữa thế kỉ XVII, Bồ Đào Nha suy yếu dần, không cạnh tranh nổi với các nước tư bản đang lên. Những thuộc địa của Bồ Đào Nha dần dần rơi vào tay các nước thực dân khác. Bàng vũ lực uy hiếp và thủ đoạn lường gạt, Hà Lan đã chiếm được quán đảo hương liệu ở Inđônêxia và Malacca.
Sau khi chiếm được Malacca, Công ty Đồng Ấn Độ của Hà Lan liền mở rộng thế lực đến các vương quốc phía bắc vốn phụ thuộc Xiêm. Chúng xúi giục các vương quốc này đánh nhau, làm suy yếu lẫn nhau rồi dùng vũ lực bất phải thán phục. Hệ thống thuộc địa của Hà Lan, dù ở Inđônêxia hay ở Mã Lai cũng đều xây dựng nên “một bức tranh miêu tả những sự giết hại, phần trác, sa đọa và để tiện, không thời nào có thể sánh kịp.
Nhưng thời kỳ thống trị của Hà Lan ở Mã Lai cũng nhanh chóng kết thúc cùng với sự kết thúc địa vị bá quyền trên biển của chúng Thời kỳ huy hoàng của ưu thế thương nghiệp qua đi, giai đoạn bá quyền về công nghiệp quyết định vị trí của các nước tư bản bất đấu. Nước Anh tư bản công nghiệp đang lên trở thành đối thủ đáng gờm của Hà Lan. Thực dân tư bản thương nghiệp Hà Lan phải nhường bước cho thực dân tư bản công nghiệp Anh.
3. Cuộc tranh giành Mã Lai giữa tư bản Anh và Hà Lan
Từ cuối thế kỉ XVI, người Anh đã bắt đầu chú ý nhiều đến bán đảo Mã Lai.
Công ty Đông Ấn Độ của Anh phải người đến thăm dò Ma Lại (Malacca), thâm nhập một số vùng ở Penang và Kê Đắc. Đến thế kỉ XVIII, sau những cuộc đọ sức thể hiện rõ ưu thế của công nghiệp. Anh mới dần dần trở thành một nước tư bản thực dân có thể lực. Công ty Đông Ấn Độ của Anh từ một lực lượng thương nghiệp trở thành một lực lượng quân sự có quyền ký kết hòa ước, chiếm lĩnh đất đai. Cũng chính từ lúc đó, Anh đạt cơ sở cho nên thống trị ở phương Đông trong hàng mấy thế kỷ.
Mục tiêu của đế quốc Anh là chiếm lấy vùng đất phì nhiều rộng lớn Ấn Độ và Trung Quốc. Anh cổ xây dựng những cử điểm chiến lược quan trọng trên đường biển đi về phương Đông. Chính vì vậy, Công ty Đông Ấn Độ của Anh đã đưa vào chương trình xâm lược của chúng việc chiếm bán đảo Mã Lai.
Năm 1771 thực dân Anh đến Kê Dốc đàm phán với Suntan ở đây. Ke Đốc là một vương quốc nhỏ ở phía bắc Mã Lai luôn luôn bị Xiêm tấn công uy hiếp. Vào thế kỉ XVIII, nên thống trị phong kiến ở vương quốc này cực kỳ thối nát, mâu thuẫn trong tầng lớp quý tộc và mâu thuẫn giữa nông dân với phong kiến ngày càng sâu sắc. Các cuộc tranh giành ngôi báu thường xuyên xảy ra và nhất là các cuộc chiến tranh của nông dân chống lại chế độ bóc lột hà khác đã làm cho chế độ phong kiến lung lay. Suntan vô cùng bối rối. Giữa lúc đó, thực dân Anh lợi dụng thời cơ nhảy vào, hứa sẽ viện trợ quân sự, giúp đỡ Kêđắc tránh khỏi sự xâm lược của Xiêm, và trấn áp phong trào đấu tranh của nông dân. Để bảo vệ quyền lợi ích kỉ, ngày 12 – 8 – 1786 Suntan Kêđác đồng ý kí hiệp ước với Công ti Đông Ấn Độ của Anh. Hiệp ước quy định : Penang thuộc quyền sở hữu của người Anh và Anh sẽ giúp Suntan Kêđắc “bảo vệ khi có kẻ xâm lược”. Lịch sử nô dịch nhân dân Mã Lai của thực dân Anh bắt đầu từ hiệp ước này.
Năm 1795, Anh tổ chức đội quân viễn chinh đánh chiếm Malacca là nơi có vị trí quan trọng về mặt kinh tế và quân sự, có thể làm tiền đồn tốt nhất để tấn công Giava, một trung tâm của Pháp – Hà Lan ở phương Đông. Vương quốc Maldcca bị chinh phục, Rảypholit được phái làm toàn quyền với mục đích chuẩn bị tấn công cả Giava và quần đảo Mã Lai
Năm 1800, thực dân Anh chiếm một phần đất duyên hải của Kêđắc. Quan hệ giữa Anh và Hà Lan lúc này có thay đổi, năm 1814 Napôleông bị đánh bại, Anh muốn lôi kéo Hà Lan về phía mình để cô lập Pháp. Ở hội nghị Viên, thực dân Anh buộc phải trả lại Giava và Malacca cho Hà Lan, nhưng vẫn giữ Penang và vùng ven biển Kêđắc.
Sau khi buộc phải rút khỏi Giava và Maldcca, Räypholít đã phát hiện ra Xingapo, một hòn đảo nằm án ngữ giữa bán đảo Mã Lai với Xumatơra, là mảnh đất có một vị trí đặc biệt. Xingapo với diện tích 585km’ là yết hầu của eo Malácca, khi đó vẫn còn là một hòn đảo hoang tàn, có thể xây dựng thành một thương cảng lớn và một pháo đài ở vùng biển Đông Nam Á.
Sau khi được chính quyền chuẩn y, Rãypholit dẫn một số chiến thuyền đến đảo Xingapo buộc Suntan Giôho và Malácca đồng ý cho lập đại lí công ti buôn bán của Anh ở đây.
Lợi dụng những mâu thuẫn trong nội bộ hoàng tộc của vương quốc Giôho và sự đe dọa của Hà Lan, Raypholit đã giành được một hiệp ước có lợi về vấn đề Xingapo. Ngày 6 – 12 – 1819, Suntan mới lên ngôi đã cùng với Raypholít kí hiệp ước cho Anh quyền xây dựng đại lí buôn bán trên bất kì nơi nào trong lãnh thổ Giôho và được độc quyền buôn bán ở Xingapo. Để trả công. Công ti Đông Ấn Độ của Anh trợ cấp hàng năm cho Suntan 5.000 pe xô và một nửa thu nhập quan thuế ở Xingapo. Vì bị Hà Lan phản đối, Anh phải triệu hồi Raypholit. Nhưng ý định xâm lược của Anh vẫn không thay đổi và đến năm 1824, chúng hoàn toàn chiếm Xingapo.
Trong một thời gian ngán, Xingapo trở thành cứ điểm chiến lược trên con đường đến Trung Quốc. Nhưng Anh muốn khống chế toàn bộ bán đảo Ma Lai là nơi rất giàu nguyên liệu công nghiệp, Malacca do Hà Lan khống chế trở thành cái gai chướng mắt. Bằng áp lực kinh tế và thủ đoạn đe dọa, Anh đã chen bật Hà Lan ra và chiếm lay Malácea.
Năm 1824, Anh và Hà Lan kí điều ước quy định Hà Lan sẽ giao cho Anh những lãnh địa của Hà Lan ở Ấn Độ và Maldeea ; Anh sẽ giao những cử điểm xây dựng ở Xumatøra cho Hà Lan, và hứa không xây dựng gì thêm trên đất Xumatora nữa. Tất nhiên, đối với Hà Lan, đây là sự thừa nhận thế lực lớn mạnh của Anh còn với Anh thì đây chỉ là cơ hội để lấn tới. Thực ra, Anh vẫn ở lại Xumatdra và sau này, ngày càng thâm nhập kinh tế một cách mạnh mẽ.
Điều ước trên đã tạo thêm điều kiện cho thực dân Anh xâm lược toàn bộ Mã Lai. Sau khi đẩy tư bản Hà Lan ra khỏi Mã Lai, thực dân Anh tiến hành ngay hai việc cơ bản :
Để để phòng việc tiếp xúc và liên kết giữa các vương quốc Ma Lai với Xiêm, Anh buộc các Suntan Perắc và Selango kí hiệp ước chống lại Xiêm.
Buộc Pêrác cắt một số đất cho Anh.
Những lãnh địa Anh chiếm được của Mã Lai hợp thành một tuyến cứ điểm khống chẽ chặt chẽ bán đảo và eo biển. Để thống nhất về tổ chức, thực dân Anh thành lập “lãnh thổ thuộc địa có biển” bao gồm trung tâm Xingapo, Malacca, Penang Đứng đầu là tổng đốc người Anh, trực thuộc Tổng đốc tỉnh Bengan (Ấn Độ).
Năm 1867 vùng thuộc địa eo biển đặt dưới quyền quản lí trực tiếp của Bộ thuộc địa Anh.