Nước Mỹ sau khi độc lập

1. Hậu quả của chiến tranh 

Cuộc chiến tranh đã để lại một hậu quả to lớn. Nước cộng hòa vừa mới ra đời phải đương đầu với những thử thách lớn về kinh tế, chính trị và xã hội. Chính quyền hoàn toàn nằm trong tay giai cấp tư sản, thương gia, chủ nô, chủ đồn điền. Nhân dân lao động là người chịu đựng hy sinh trong chiến tranh lại đồng thời là người phải gánh nặng tai họa sau chiến tranh. Số nợ của liên bang lên tới 56 triệu đôla và nợ của các tiểu bang tới 18 triệu. Nền kinh tế sau chiến tranh không ổn định, nạn lạm phát gây rối loạn thị trường Thuế má tăng, hàng ngàn người thất nghiệp, cuộc sống không được bảo đảm.

Trong những năm 80 thế kỉ XVIII, các cuộc nổi dậy ngày càng nhiều hơn. Binh lính cũng nổi dậy chống lại bọn chỉ huy và chính quyền. Họ đòi bọn sĩ quan phải tôn trọng và phải đáp ứng đòi hỏi quyền lợi của họ. Phong trào đấu tranh của các trại chủ cùng gia tăng vì bị phá sản trước sự phá giá của đồng tiền, không có cách gì kinh doanh và bảo đảm thuế má. 

Năm 1786, một “phácmơ nghèo đã từng phục vụ trong quân đội Đanien Sexơ (1747 – 1825) đã tập hợp được 2000 người chống lại chính quyền ở bang Masaxuxét. Họ tấn công công binh xưởng ở Spơringphin, nhưng bị thất bại. Đông đảo nông dân ở Níu Inglân và Nếu Hamoai nổi dậy hưởng ứng. Phong trào kéo dài từ mùa hạ năm 1786 đến mùa xuân năm 1787 với chủ trương : phân chia ruộng đất công bằng, xóa bỏ nợ nần, xét xử công minh. Nguyên tắc để ra của họ là : thắng lợi nhờ công sức của mọi người thì quyền sở hữu đất đai phải thuộc về tất cả. 

Cuộc khởi nghĩa lan rộng sang các bang. Hàng vạn quân chúng đứng lên đòi quyền dân chủ. Nhưng chính quyền tư sản đã huy động lực lượng quân đội đàn áp. Danien Sexơ cùng 13 chiến hữu bị bắt và bị đi đầy. 

Cuộc đấu tranh giành đất đai trở thành nội dung cụ thể trong tiến trình cách mạng. Cách mạng tuyên bố thủ tiêu các hình thức chiếm hữu phong kiến và tước danh quý tộc ; bãi bỏ chế độ lĩnh canh cha truyền con nối. Đến năm 1791 bỏ quyển thể tập con trưởng. 

Nhưng vấn đề đặt ra là việc mở rộng vùng đất miền Tây, mở mang con đường lập trang trại của các trại chủ, xóa bỏ luật cấm đi thực của nhà vua. Trong thời gian 6 năm chiến tranh đã có tới 25.000 dân kéo đi lập nghiệp ở vùng đất bên kia dãy núi Aliganit. Dân tự do Bắc Mĩ đã dùng biện pháp di thực mạnh mẽ để phá vỡ chế độ phong kiến và mở đường đi lên chủ nghĩa tư bản. Nhưng nhà nước tư sản đã trực tiếp chi phối ruộng đất phía tây Aliganit. 

Năm 1785 chính phủ đã quyết định bán lại đất đai. Theo điều luật năm 1787, người ta đem chuyển nhượng từng ô đất rộng 640 acrơ với giá tiền hơn 1000 đôla. Như vậy chỉ có chủ đón điển mới có khả năng mua được. Đến năm 1800, chính phủ buộc phải ra đạo luật cho phép bán những phần đất bé hơn 160 acro đến 320 acro và được trả tiền dẫn sau khi trả trước 1/4 giá đất. Những “pháơmơ” nhỏ nhờ vậy có khả năng mua được ruộng đất.

Như vậy, cuộc cách mạng 1775-1783 đã khẳng định con đường phát triển kinh tế nông nghiệp theo chế độ “phácmơ”. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cuộc cách mạng ruộng đất thống nhất trong một quá trình tiến hành. Điều này chứng tỏ nhu cầu cách mạng ruộng đất là một yếu tố quan trọng chi phối tiến trình cách mạng.

Chính sách kinh tế quan trọng thứ hai của nhà nước Mỹ là việc phát hành tiền giấy. Việc phát hành tiền giấy mang theo ý nghĩa độc lập về chính trị đồng thời giải quyết nguồn tài chính thiếu hụt. Số tiến phát hành ở các bang lên tới 209 triệu đôla. Mặc dù đồng tiền mất giá nhưng nó lấy lại hơi sức cho cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng tài chính. Năm 1786 điều luật tiêu chuẩn hóa tiền tệ ở Mỹ được ban hành. Hệ thống ngân hàng cũng được thành lập. 

Về ngoại thương, năm 1778, Mĩ kí điều ước liên minh với Pháp. và mở rộng việc buôn bán ; sau đó ký với Phổ, Thụy Sĩ. 

Nhưng đặc điểm quan trọng của chính sách kinh tế sau cách mạng 1775-1783 là việc khuyến khích phát triển công nghiệp. Đây chính là cơ sở để thủ tiêu triệt để chủ nghĩa thực dân, bảo vệ thành quả cách mạng. Nén tự chủ về chính trị và kinh tế của nước Mỹ về cơ bản phải dựa trên nền công nghiệp mới phát triển. 

Nhà nước chú ý khuyến khích các ngành sản xuất công nghiệp tự giải quyết yêu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Ngành sản xuất sắt, thép, vũ khí, hàng dệt được khuyến khích. Việc chế tạo giấy, kính v.v… đều được cải tiến. Ngành sản xuất hàng len. hàng lanh, dệt vải phát triển mạnh. Đặc biệt công nghiệp sản xuất vũ khí, thuốc súng. hàng quân nhu, công nghiệp cán thép được chú trọng đẩy mạnh. Năm 1778 đại hội lục địa cho xây dựng xưởng đúc đại bác ở Sping-phin. Công nghiệp kéo sợi dệt vải phục vụ cho quân nhu cũng được cải tiến xây dựng ở Connếchticớt, Masaxuxét v.v… Tuy vậy sản phẩm công nghiệp của Mỹ vào những năm 80 cũng chỉ trị giá chừng 50 triệu đô la. Sự cạnh tranh của công nghiệp Anh vẫn còn là trở ngại lớn trên con đường phát triển công nghiệp. 

Cách mạng Mỹ đã có một số chính sách tiến bộ về kinh tế xã hội, song vì quyền lợi kinh tế của giai cấp tư sản chủ nô, chế độ nô lệ đã không bị thủ tiêu, chế độ nô lệ đón điển ở miền Nam vẫn tồn tại. 

2. Hiến pháp 1787 và bản chất giai cấp tư sản 

Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Anh, 13 bang thuộc địa đã có những điều khoản liên hiệp cần thiết được phê chuẩn nam 1781. Các tiểu bang còn giữ nhiều quyền lớn, đặc biệt quyền thu thuế và buôn bán. Quyền hành pháp và tư pháp của Hội đồng lục địa chưa đủ bảo đảm cho sự điều hành kinh tế, quản lí thống nhất. 

Sau khi thắng lợi, việc xây dựng một chính quyền trung ương đáp ứng nhu cầu quản lí xã hội đã thúc đẩy Hội nghị liên bang khai mạc vào tháng 5 năm 1787. Sau bốn tháng thảo luận, Hội nghị đã đưa ra một dự thảo Hiến pháp có vị trí hết sức quan trọng trong lịch sử nước Mĩ. 

Dưới quyền chủ tọa của Oasinhtơn, các đại biểu đã thỏa thuận biển nước Mĩ từ một liên bang nhiều quốc gia thành một quốc gia liên bang. 

Nguyên tắc tổ chức chính quyền là sự phản lập 3 quyển : quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. 

Tổng thống, nhiệm kì 4 năm là người nắm quyền hành pháp cao nhất, được bầu cử theo lối gián tiếp, qua hai cấp. Tuyển cử đoàn (còn gọi đại cử tri) gồm những người được bầu ra để đi bầu tổng thống. Số lượng bằng tổng số thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ. Là người có quyền hạn lớn, quyền chỉ huy quân đội, tổng thống còn có quyền phủ quyết những vấn đề liên quan đến quyền lập pháp. Tập trung trong tay một quyền lực lớn, bộ máy chính phủ gồm các bộ trưởng và quan tòa Liên bang đều do Tổng thống quyết định bổ nhiệm. 

Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện gồm hai viện : Thượng viện và Hạ viện Hạ viện do dân chúng bầu lên, số đại biểu thay đổi theo dân số các tiểu bang. Thượng viện gồm đại biểu bầu lên, mỗi tiểu bang 2 người không kể dân số nhiều hay ít. Cứ hai năm một lấn, thành phần Thượng viện phải thay một phần ba. Hạ viện thì hai năm bầu lại một lần. Nghị viện hạn chế quyền lực đối với Tổng thống bằng số phiếu đa số trên 2/3 số nghị sĩ của hai viện về những quyết án. 

Cơ quan tư pháp tối cao gồm những thành viên là luật sư do Tổng thống chỉ định và được Thượng nghị viện đồng ý. Tòa án có quyền giải thích các đạo luật, hiệp ước nhưng cũng có quyền tuyên bố sự mất hiệu lực của các văn bản đó. 

Quyền tuyển cử phản ánh tính chất giai cấp và kỉ thị chủng tộc. Những người da đen nô lệ và người da đỏ bị tước đoạt hết quyền chính trị. Còn những người da trắng phải có tài sản mới được quyền ứng cử, bầu cử kèm những điều kiện thuế tài sản nhất định. Phụ nữ không được đi bầu. Những quy định khắt khe như vậy làm cho chỉ có chừng 4,8% dân số được tham gia bầu cử. 

Hiến pháp được phê chuẩn vào tháng 7-1788 và có hiệu lực từ ngày 4-3-1789. 12 điều khoản quy định quyền tự do dân chủ của công dân được bổ sung 

Oasinhtơn được bầu làm Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ.