Phong trào đấu tranh anh chống Pháp của nhân dân Lào đầu thế kỉ XIX
Nhân dân Lào vốn yêu độc lập và tự do, đã từng đấu tranh gần giữ Tổ quốc một cách dũng cảm trong lịch sử. Trong giai đoạn cận đại, nhân dân Lào đã tiến hành cuộc đấu tranh bất khuất trên toàn lãnh thổ để chống lại ách nô dịch tàn bạo của thực dân Pháp.
1. Phong trào đấu tranh của nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Phò CàĐuột (1901 – 1903)
Phò Caduột là một nông dân sinh trưởng ở bàn Khanthachan, huyện Khanthaburi, tỉnh Xavanakhet cũng như nhân dân Lào ở khắp nơi đều bị thực dân Pháp bóc lột dã man. Họ phải đi phu, đóng thuế lao dịch nặng nề, tinh thần dân tộc bị xúc phạm, nên khi Phò Cađuột ra lời kêu gọi, nhân dân Lào đã đứng dạy chống Pháp. Mùa xuân 1902 cuộc khởi nghĩa đã phát triển mạnh mẽ ở vùng đồng bằng Xavanakhet và tiến xuống Xoôngkhôn.
Sau khi đánh chiếm Xoỏngkhôn, quân khởi nghĩa phát triển đông thêm. Thừa tháng, nghĩa quân tiến về giải phóng Xavanakhet sáng ngày 19 – 4 – 1902, bao vây thị xã, tấn công tòa sứ và đón lính. Những người khởi nghĩa đã cắt đứt đường dây liên lạc giữa Xavanakhet và Viêngchăn. Tuy vậy bọn thực dân Pháp vẫn nhận được tin, vội điều quân chính quy do tên quan ba chỉ huy từ Nam kỳ lên. Thực dân Pháp đã đàn áp nghĩa quân Xavanakhẹt một cách dã man. Chúng xả súng bắn vào đám biểu tình, giết hơn 200 người.
Sau khi mất địa bàn hoạt động ở vùng đồng bằng Xê banghiên, nghĩa quân kéo sang hoạt động tại vùng Xêpôn trên đường số 9, ở vùng biên giới Lào – Việt. Cuối cùng, Phò Cađuột cùng các chiến hữu về hoạt động ở căn cứ Huội Longcong vùng Kengeốc. Trong một trận bao vây tấn công của quân Pháp, Phò Cađuột bị bắt và bị sát hại cùng hàng trăm bạn chiến đấu. Cuộc đấu tranh tuy vẫn còn kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng không tránh khỏi thất bại.
2. Cuộc khởi nghĩa của những người anh hùng cao nguyên Bôlôven Ong Kẹo và Kommadam (1901 – 1937)
Vào cùng thời gian nổi dậy của Phò Cađuột ở Xavanakhet thì trên cao nguyên Boloven, người Lào Thơng đã tiến hành một cuộc khởi nghĩa khác dưới sự lãnh đạo của Ông Kẹo và Kommadam. Cuộc đấu tranh anh hùng này kéo dài trong suốt 37 năm.
Cao nguyên Bolôven là một vùng đất rộng lớn, phì nhiêu rất thuận lợi cho việc chăn nuôi trồng trọt, đặc biệt là trồng cây công nghiệp. Ngay từ đầu, thực dân Pháp đã chú ý tới vùng này. Những đoàn thám hiểm thực dân đã từng đến khảo sát. Chúng phát hiện cao nguyên Boloven không những là một vùng đất có giá trị khai thác kinh tế mà đồng thời còn là một mảnh đất có vị trí chiến lược quan trọng nằm giữa biên giới Việt Nam, Lào, Campuchia.
Đã từ lâu, thực dân Pháp muốn đưa giáo sĩ vào để lôi kéo những dân tộc ít người ở đây, nhưng không có kết quả nên phải dùng biện pháp quân sự để thu phục. Nam 1899, chúng lập đồn lính và đại lí ở bản Đon trên bờ sông Xêbốc, ra sức kiểm soát toàn khu vực. Cuộc sống của nhân dân Bolôven bị xáo trộn. Vốn là vùng cư dân giàu có, ngoài lương thực, nơi đây còn có đậu khấu và gai là những cây công nghiệp có giá trị, có nhiều gia súc, bò lợn. Cuộc sống của nhân dân ở Boloven khá đầy đủ, nhưng từ khi thực dân Pháp kéo đến, bọn chúng và tay sai ra sức bóc lột làm cho đời sống nhân dân đói khổ. Các thứ thuế đè nặng lên đầu nhân dân. Chế độ phu phen, tạp dịch làm cho nhân dân điêu đứng. Nạn đói hoành hành, riêng năm 1902 có nhiều nơi số dân bị chết quá nửa. Hai bên bờ sông Huội Padúc đẩy những xác xương khô.
Cuối năm 1900 ở Xaravằn bắt đầu tiến hành những buổi lễ kì lạ trên ngọn núi Phukham, và xuất hiện một người tên là My có uy tín trong nhân dân My là người dân tộc Nghé (một chi của Lào Thơng), sinh ở Chủ Bản, huyện Tha Teng tỉnh Xaravẫn. Sau khi phong trào bùng nổ, nhân dân tặng ông cái tên tôn kính : Ông Kẹo (có nghĩa là viên ngọc). Người bạn chiến đấu và là người có công lớn bên ông là Kommadam đã cùng ông tập hợp lực lượng chuẩn bị đánh Pháp bằng vũ khí thô sơ, dáo mác, súng kíp, nổ bán tên độc… Đầu tiên nghĩa quân tập kết ở bản Toọc thuộc huyện Xe Roong.
Ngày 12 – 4 – 1901 nghĩa quân tấn công đơn vị lính Pháp đóng ở chùa Tha Teng 1500 quân khởi nghĩa gồm nhiều tay súng kíp thiện xạ đã vây đánh đơn vị do tên công sử Rami chỉ huy. Sự kiện này như tiếng súng mở đấu cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân Nam Lào kéo dài trong 37 năm.
Người Lào Thơng, Lào Làm cùng toàn thể nhân dân cao nguyễn, cả những nhà sư đều làm lễ mừng, mong mỗi tháng lợi của “con người có phúc – Phumibun””), Họ truyền nhau lời chúc tụng thiêng liềng “tống cổ nhanh chóng tất cả người Pháp”.
Bọn thống trị thực dân hoang mang, chúng phải rút khỏi Xaravẫn, Bátxác để tránh đòn bất ngờ. Cuộc khởi nghĩa như vết dấu loang nhanh chóng. Đầu tháng 7 đã có những cuộc đụng độ khá quyết liệt giữa nghĩa quân và quân Pháp ở bản Khaso và bản Đaxia. Thực dân Pháp điều bình từ Bắc Bộ, Trung Bộ Việt Nam đến tăng cường ở Atôpo, Xaravần và Bátxác. Ở vùng Bolôven, thực dân Pháp. thiết lập một hệ thống đồn bớt trên trục đường quan trọng Thateng, Đaxia để đối phó.
Pháp vội vàng thành lập tại Nam cao nguyên Bolôven hai binh đoàn đặc biệt. Nghĩa quân chặt cây, lấp đá chặn lối đi về căn cứ Noọngbốc. Quân Pháp phải hành binh đến ba tháng mới về được khu căn cứ.
Chiến thuật của nghĩa quân là đánh du kích, đánh nhanh rút nhanh. Ngày 14 – 10 – 1901, quân Pháp bị chặn đánh thiệt hại một số ; ngày 3 – 11 – 1901 quân Pháp lại bị phục kích thiệt hại nặng. Chặng đường tiến công vất và phải đổi bằng máu. Cuối cùng. sau trận giao chiến ác liệt ở bản Xépiên, quân Pháp mới vào được khu căn cứ Noọngbốe.
Phong trào đấu tranh lan dẫn đến vùng tả ngạn sông Xécoong. Nhân dân biên giới Lào – Việt bắt tay nhau cùng chống kẻ thù chung Tháng 5 – 1901, nghĩa quân tiến công đồn Konketu, nơi hợp lưu giữa sông Pôcô và Poxi, đồn biên giới hai nước Việt – Lào. Sáng ngày 29 – 5 – 1901, nghĩa quân cải trang tiến vào đồn và nhanh chóng đánh chiếm Konketu. Bị tập kích bất ngờ, binh lính trong đồn không kịp trở tay. Tên đốn trưởng bị thương nặng, quân lính hoang mang vội vàng cáng tên đồn trưởng tháo chạy về Kon Tum Việt Nam. (I) Danh hiệu đẹp nhân dân Lào gọi Ông Kẹo và Kommadam.
Năm 1902, nghĩa quân hoạt động mạnh ở Xaravẫn. Những cuộc đụng độ giữa nghĩa quân và quân Pháp xảy ra hàng ngày. Một người chỉ huy nghĩa quân ở Thoong Vải là Ông Prơi đã đánh rất giỏi làm cho quân Pháp lao đao, chúng phải điều động lính khổ xanh từ Đaxia, Thateng, Tạcpac đến.
Vốn tin vào sức mạnh của súng đạn kĩ thuật, thực dân Pháp cho rằng những lực lượng quân sự to lớn của chúng điều động từ khắp Đông Dương vẻ sẽ có thể đánh tan nghĩa quân vào mùa mưa năm 1902. Nhưng chúng đã tính sai, nghĩa quân vốn người dân tộc quen thuộc địa bàn núi rừng, làng bản của họ, lại dùng chiến thuật du kích nên bọn Pháp không thể nào tìm được họ, không mở được cuộc càn quét có tính chất quyết định.
Trong năm 1905, nhiều hoạt động quân sự của nghĩa quân lại nổ ra. Ông Kẹo và Kommadam bắt đầu mở những cuộc tiến công mới. Ngày 30 – 11 – 1905, một đơn vị nghĩa quân tiến đánh vào Noọng Bốckhau trừng trị một số tên phản bội làm tay sai cho địch. Bọn Pháp buộc phải triệu tập một hội nghị quân sự quan trọng tại Xaravẫn vào ngày 4 – 1 – 1906 để thảo luận việc đối phó với nghĩa quân. Theo kế hoạch, chúng sẽ tổ chức một lực lượng quân sự lớn, có pháo binh yểm trợ, tấn công vào khu căn cứ của nghĩa quân ở vùng rừng núi tả ngạn sông Xécoong.
Mùa hạ năm 1906, sau khi đã tập trung binh lực lớn, quân Pháp liền đánh mạnh vào căn cứ địa. Anh hùng nghĩa quân Ong Prơi ở Phu Kête buộc phải vượt sông Mê Công lánh sang Xiêm. Bọn tay sai ở Xiêm đã bắt ông trao cho thực dân Pháp. Chúng xử tử Ong Proi nam 1908.
Nghĩa quân bị phiêu tán, năm 1907, sau khi phải rời căn cứ địa, lực lượng suy yếu nên không có những trận đánh lớn. Các lãnh tụ nghĩa quân lo củng cố lại lực lượng. Ông Kẹo tranh thủ mua vũ khí từ Xiêm về. Lực lượng nghĩa quân tuy đã yếu đi, nhưng thực dân Pháp không có cách gì để làm tan rã hoàn toàn nghĩa quân. Ông Kéo và Kommađam vẫn được nhân dân che chở, Pháp khó lòng tiêu diệt được, nên chúng phải dùng kế lừa dối.
Công sử Pháp Phenle giả thương lượng mời Ong Kẹo và Kommađam đến đàm phán ngừng chiến, hứa sẽ đáp ứng yêu cầu của nghĩa quân. Cuộc chiến tranh kéo dài làm một số lãnh tụ nghĩa quân mệt mỏi muốn đàm phán hòa bình ; một số người khác ngây thơ tin vào sự đàm phán. Riêng Kommadam không đồng ý đàm phán vì không tin vào thiện chí của kẻ thù. Nhưng Ông Kẹo quyết định sẽ đến dự cuộc tiếp xúc với chúng ở chùa Xaravẫn.
Theo quy định, hai bên không ai được mang vũ khí vào cuộc họp. Hai bên khám xét lẫn nhau trước khi vào họp và trong phòng chỉ có công sứ Phenle và Ông Kẹo.
Bọn thực dân Pháp quỷ quyệt lợi dụng phong tục của dân tộc Lào Thơng là cấm sờ vào đầu người khác, tên công sử Phenle đã giấu khẩu súng lục trong chiếc mũ nổi đang đội trên đầu. Sau khi làm xong thủ tục khám xét, trong phòng đàm phán chỉ còn Phenle và Ông Kẹo, y đã rút súng bắn chết Ong Kẹo. Ông hi sinh ngày 13 – 10 – 1907.
Sau khi Ông Kẹo bị hãm hại, nghĩa quân xiết chặt hàng ngũ xung quanh Kommadam.
Kommadam là lãnh tụ, có tài về quân sự, chính trị và có đầu óc tổ chức. Năm 13 tuổi, ông bị giặc Pháp bắt giam tại nhà lao Mường May. Chính trong nhà tù ông đã học đọc, học viết. Thoát khỏi nhà tù, ông theo Ông Kẹo và trở thành lãnh tụ số 2 của nghĩa quân sau Ông Kẹo.
Là người có đầu óc tổ chức, ông chú ý đến dân tộc Lào Thơng ở khắp nơi, tìm đủ mọi cách nhóm lên nhiều cuộc khởi nghĩa để chia nhỏ lực lượng kẻ thù. Ông không chỉ thấy phong trào ở Bolôven mà nhìn rộng toàn đất nước, không chỉ thấy phong trào của dân tộc Lào Thơng mà còn động viên tinh thần đấu tranh yêu nước của dân tộc Lão Lùm và các dân tộc anh em khác ở Páexẽ, Bátxác, Xaraván, Atopo, Xiphandon.
Kommađam phát đi lời kêu gọi nhân dân thuộc các dân tộc đoàn kết chống thực dân Pháp bằng mọi biện pháp : không nộp thuế, không đi lính, không đi phu. Để công tác tuyên truyền giáo dục dân tộc một cách có hiệu quả, Kommadam đã cải tiến chữ “Khoom” thành chủ riêng của dân tộc Lào Thơng
Để chiến đấu lâu dài và có hiệu quả, Kommadam thiết lập nhiều căn cứ dọc sông Xécatăng, mở lò rèn súng kíp, nấu lấy thuốc súng, khai thác chỉ đúc đạn.
Sau khi Ông Kẹo bị hãm hại, bọn thực dân Pháp tập trung một binh đoàn càn quét khu căn cứ, hi vọng sẽ dẹp tan hoàn toàn lực lượng nghĩa quân. Nhưng nghĩa quân dưới sự chỉ huy tài tình của Kommađam đã phục kích đánh tan binh đoàn càn quét của thực dân Pháp. Nghĩa quân không ngừng hoạt động ở Xaravẫn, Páoxé, Bátxác. Thực dân Pháp không bình định nổi, chúng gọi căn cứ nghĩa quân là “khu vực không chịu thuần phục” ở Nam Lào.
Cuộc đấu tranh của Kommadam lãnh đạo ngày càng phát triển và có căn cứ vững chắc ở vùng núi Phù Luổng Đông bác Bolôven. Nhân dân Lào yếu quý ông coi ông như “Lãnh tụ của nhân dân”.
Những chậu mường phản bội đều bị trừng trị. Tháng 7 – 1934 một chậu mường ở gần Phù Luồng làm tay sai cho Pháp đã phải đền tội.
Năm 1936, thực dân Pháp quyết tâm huy động một lực lượng lớn có không quân 5 tiểu đoàn bộ binh, 200 thớt voi, nhiều đơn vị kị binh mở cuộc tấn công Phù Luổng. Nhờ có một tên phản bội chỉ đường, bọn thực dân đã vào được tận bản doanh của Kommadam và đã giết hại ông trong một trận đánh tháng 9 năm 1936. Ba người con của Kommađam vẫn tiếp tục chiến đấu cho mãi đến tháng 7 năm 1937 mới bị bắt.
3. Cuộc khởi nghĩa của Chậu Pachay 1918 – 1922
Cuộc khởi nghĩa nổ ra trên một vùng rộng lớn gồm phấn Bắc Lào và nhiều tỉnh Tây Bắc Việt Nam, lối cuốn hầu hết những người. thuộc dân tộc Mèo các tỉnh này tham gia.
Người Mèo sống trên lãnh thổ Lào là người Lào Xùng, có chừng 10 đến 15 vạn người. Địa bàn cư trú của họ là vùng Bắc Lào, đặc biệt là Xiêng Khoảng và Luông Phabăng. Đặc tính của dân tộc này là thiện chiến, sống trung thực, ưa giao du kết nghĩa, thích tự do và có tinh thần độc lập rất cao.
Mâu thuẫn giữa thực dân Pháp với dân tộc Lào Xung là hậu quả của chính sách thống trị tàn bạo và vơ vét thuốc phiện. Bất kể người Lào Xưng nào cũng đều phải nộp 2kg thuốc phiện trong một năm, dù hút hay không, có trồng hay không. Lại thêm phu phen tạp dịch, thuế khóa nặng nề khác làm người Lào Xung nổi dậy. Đầu thế kỉ XX, những cuộc vận động chống đối của cư dân dân tộc Lào Xủng đã dần dán hình thành.
Pachay một người đứng đầu bản Lào Xung ở Mường Sơn tỉnh Sám Nưa nhận thức được sự bóc lột tàn bạo của bọn Pháp đã lãnh đạo nhân dân nổi lên chống đối. Là người có tài tổ chức, biết vận động kết hợp tình cảm dân tộc với lòng yêu nước, yêu độc lập tự do, ông đã tập hợp người Lào Xùng, người Mẹo Tây bắc trên một địa bàn rộng lớn.
Cuộc đấu tranh đầu tiên nổ ra vào cuối năm 1918 ở vùng biên giới Việt – Lào. Cuộc chiến đấu của dân tộc ít người này đã mang tính chất liên minh giữa hai dân tộc Việt – Lào trong mối quan hệ đặc biệt. Cùng chung tộc người, cùng chung kẻ thù, một dải đất cư trú nổi liền làm cho cuộc đấu tranh này thành cuộc đấu tranh có ý nghĩa sâu xa.
Ngày 4 – 12 – 1918 nghĩa quân đã đánh trận phục kích đoàn xe Pháp ở bản Nạm Ngan. Ngày 12, Pháp tung lực lượng tấn công vào khu căn cứ của nghĩa quân, Pachay phải rút lui về vùng rừng núi Sơn La. Tên quan ba Pháp là Gochiê cho quân truy kích, nhưng bị nghĩa quân đánh cho thiệt hại ở Bản Lan và Xuân Yên. Chính trong thời kì này, các cuộc khởi nghĩa của người Lào Xung và cả các dân tộc khác ở vùng Bắc Lào và Tây bắc Việt Nam đã bùng nổ. Nhiều cuộc đụng độ giữa nghĩa quân và quân đội thực dân luôn luôn xảy ra. Một số quân Pháp bị giết và bị thương. Tên quan ba Gôchiế bị chết trong một trận phục kích.
Mùa hè năm 1919, cuộc đấu tranh thực sự đã lan khắp vùng Tây bắc và Đông bắc Lào, vùng Nam U, Sám Nưa, Xiêng Khoảng. Vùng rừng núi hiểm trở có diện tích khoảng 4 vạn km2 thành mảnh đất hoạt động của nghĩa quân. Việc điều binh của Pháp gặp nhiều khó khăn và chiến đấu càng vất vả.
Mùa thu năm 1919, tên công sứ Pháp ở Luông Phabăng mở chiến dịch càn quét vào khu căn cứ Xênôphôn ở vùng thượng Nam U. Nghĩa quân đã đánh tan cuộc càn quét này, tên quan hai Đixtangti bị chết, số binh lính thiệt hại khá nhiều. Ngày 21 – 9 – 1919, bọn chúng phải bỏ dở cuộc càn quét.
Trong lúc quân Pháp còn đang hoang mang trước thất bại hồi tháng 9 – 1919, nghĩa quân bất ngờ tiến công đón Mường Hợp gần biên giới Việt – Lào. Pháp phải điều quân cứu viện từ Mường Ngôi Hát Xa đến. Sau hơn 4 ngày bị vây và một bộ phận bị tiêu diệt, quân Pháp đóng ở Mường Hợp mới thoát khỏi vòng vây và rút về Hát Sa ở Sầm Nưa, Xiêng Khoảng. Phong trào lan sang đến biên giới Lào – Xiêm. Bọn Pháp đã phải kêu lên là cuộc khởi nghĩa đã lôi cuốn tất cả người Mẹo trên vùng Thượng Lào.
Cuộc đàn áp, vây ép nghĩa quân ngày càng gặp khó khăn, thực dân Pháp thấy rõ chinh phục quân sự không thể mang lại kết quả được, nên dùng các chính sách kết hợp chính trị và quân sự để trấn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Lào. Về phía nghĩa quân, Pachay đa ra sức củng cố căn cứ. Ông trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng lực lượng ở khu trung tâm vùng Xốp Xang, Mường Sơn các căn cứ Phủ Loi, Phù Phan Trung, các căn cứ ở Sám Nưa, Xiêng Khoảng, Luông Phabăng đều ở trong thời kì củng cổ tổ chức.
Năm 1920, cuộc chiến giữa giặc Pháp với nghĩa quân Pachay đã xảy ra ở vùng núi Phù Loi, vùng bản Phù Teng. Pha Xa và bản Tao Tang.
Cuối năm 1920, nghĩa quân lại hoạt động mạnh, bọn tướng tá Pháp tập trung một lực lượng lớn để tiêu diệt hoàn toàn cuộc khởi nghĩa của Pachay. Tất cả lực lượng quân sự vùng Luông Phabăng, Xiêng Khoảng Mường Hợp đều được điều động để tấn công căn cứ nghĩa quân ở Phù Chomchích, Phù Chomchạng với hi vọng bắt sống Pachay và bộ phận đấu não nghĩa quân.
Ngày 20 – 12 – 1920 quân Pháp tấn công vùng quan trọng nhất là quán Lào ván, nơi chúng nghĩ là bản doanh của Pachay. Đóng thời chúng cũng tiến công mạnh các căn cứ Nam Hợp, Nam Bông, Phía Chàm, Bản Pachay, Bản Lào Kú v.v… Ở căn cứ Phía Chàm, quân Pháp đánh nhau với nghĩa quân suốt trong 4 ngày 22 – 23 – 24 – 25 tháng 12 năm 1920.
Suốt thời gian từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1921 chính sách phá hoại của Pháp đã làm tổn thất rất lớn cho nhân dân và gây khó khăn thực sự cho nghĩa quân. Nhưng nghĩa quân vẫn chiến đấu ngoan cường, gây cho địch nhiều thiệt hại.
Tuy vậy, nghĩa quân bị yếu dẫn, nhiều căn cứ bị mất, súng đạn lương thực thiếu thốn, lại thêm bọn Pháp tập trung truy lùng ráo viết. Sau trận chiến đấu ác liệt ngày 9 – 1 – 1921 ở Lào Ku, nghĩa quân bỏ căn cứ rút sâu vào rừng núi.
Pachay và các thủ lĩnh nghĩa quân mặc dù bị xé lẻ vẫn tiếp tục chiến đấu ; song tình thế đã không thể xoay chuyển. Cuối năm 1922, Pachay bị sát hại do âm mưu cho tay sai làm nội gián của kẻ thù. Sau khi Pachay mất, cuộc khởi nghĩa bị tan dần.
Cuộc khởi nghĩa có ý nghĩa lịch sử phản ánh tính chất liên minh chiến đấu giữa hai dân tộc Lào – Việt một cách tự phát đã kết thúc. Tuy vậy cuộc đấu tranh giải phóng lâu dài của hai dân tộc trong thời kì cận đại lại chỉ mới bắt đầu, nó sẽ còn tiếp diễn cho đến ngày thắng lợi.