Quá trình xâm lược của Thực dân Anh và phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân Ấn Độ
1. Sự xâm nhập bước đầu của thực dân phương Tây vào Ấn Độ
Từ thế kỉ XVI, thực dân phương Tây đã dòm ngó và từng bước xâm nhập vào thị trường phương Đông, đặc biệt là Ấn Độ. Sau khi mở con đường biển đến Ấn Độ, Bồ Đào Nha chiếm một số căn cứ ở vùng bờ biển phía tây nam. Trong đó, Goa là vị trí quan trọng nhất. Đến nửa sau thế kỉ XVII, Hà Lan đánh bại ưu thế buôn bán của Bồ Đào Nha và cướp được một số căn cứ trừ vùng Goa, Địu và Đaman ở bờ biển phía tây.
Bằng vũ lực, thực dân Anh buộc chính phủ Môgôn trao quyền thiết lập một đại lí tạm thời ở Xurát, sau chuyển về Bombay. Đến giữa thế kỉ XVII, lập thêm căn cứ ở Mađrát, Cancutta… Thực dân Pháp xuất hiện vào những năm cuối thế kỉ XVII với những đại lí ở Sangdecnago, Pôngdisêri… Đan Mạch, Thụy Điển, Áo và nhiều nước khác cũng lần lượt đặt chân lên mảnh đất phì nhiều này. Các nước châu Âu đều thực hiện mưu đồ xâm lược thông qua hoạt động của các công ti Đông Ấn Độ – một tổ chức nắm độc quyền của mỗi nước trong việc buôn bán với phương Đông.
Đến giữa thế kỉ XVIII, hoạt động của các công ti được đẩy mạnh, Pháp chiếm được một số ưu thế nhất định ở Ấn Độ : thành lập những đội quân đánh thuê người Ấn (Xipay), đưa quân chiếm đóng một số nơi và được bọn phong kiến giúp đỡ, giành được hai vương quốc rộng lớn ở phía nam là Haiderabat và Cácnatich. Điều đó làm cho Anh lo sợ và cố giành quyền bá chủ. Do những cuộc chiến tranh ở châu Âu, cuộc xung đột vũ trang giữa Anh và Pháp diễn ra ở Ấn Độ (1746 – 1763). Kết quả, Pháp bị thất bại, chỉ giữ được Pôngdiseri và 4 thành phố vùng ven biển”. Tuy nhiên, Anh cũng chưa chiếm được nhiều đất đai lắm.
2. Thực dân Anh tăng cường bành trưởng và phong trào nhân dân đấu tranh chống xâm lược
Sau khi chiếm được ưu thế so với các nước phương Tây khác ở Ấn Độ, thực dân Anh tăng cường bành trướng đất đai. Từ Madrat, chúng biến vương quốc Cácnatich thành thuộc quốc. Chúng tăng cường hoạt động ở vùng Bengan, nơi đã đạt được 150 kho hàng và 15 đại lí lớn. Nhưng ở đây, chúng gặp phải sự kháng cự của nhân dân Bengan do nhà vua trẻ tuổi Xirat Ut Đôile đứng đầu. Nghĩa quân đã chiếm được Cancutta, buộc bọn thực dân Anh phải bỏ chạy. Sau đó, Anh điều quân về đàn áp. Trận Plexi năm 1757 diễn ra rất ác liệt, bảy vạn quân Bengan chiến đấu kiên cường nhưng bị thất bại. Xirat Ut Đôile bị bắt và bị hành hình. Quân Anh tàn phá thành phố Bengan, cướp đoạt trên 40 triệu đồng bằng, đốt trụi nhà cửa, đường phố. Sự đàn áp của quân Anh gây nên lòng căm phẫn trong nhân dân. Nhiều cuộc đấu tranh chống xâm lược bùng nổ ở những thành phố lớn thuộc Bengan được sự ủng hộ của vương quốc láng giêng Aodơ và của các đội quân Ápganixtan từ Deli tới. Nhưng lực lượng nghĩa quân bị đánh bại. Công ti Đông Ấn Độ của Anh giành được quyền thu thuế, đóng quân, lập tòa án và thiết lập bộ máy cai trị trên mảnh đất rộng lớn nhất của Ấn Độ. Vương quốc Aođơ cũng không thoát khỏi số phận lệ thuộc vào Anh.
Ở phía nam, vương quốc Haiderabat khá rộng lớn bị Anh chinh phục.
Ở phía tây, bọn thực dân từ Bombay định bành trưởng ra vùng xung quanh. Thấy rõ nguy cơ mất nước, nhà vua Haida Ali của vương quốc Maixuya – vương quốc rộng lớn nhất ở nam Ấn – tập hợp lực lượng kháng chiến. Sau khi Haida Ali chết, con trai là Tipu lên ngôi vẫn tiếp tục cuộc “chiến tranh thần thánh”, kêu gọi sự thống nhất của các vương quốc Ấn Độ và chiến đấu rất kiến cường. Nhưng thực dân Anh xảo quyệt lôi kéo các quốc vương xung quanh, cô lập Maixuya, tiến hành đàn áp buộc Tipu phải kí hòa ước năm 1792 cắt một nửa lãnh thổ cho Công ti Đông Ấn Độ. Đến năm 1796, chúng nổ súng tấn công vào phần đất còn lại của Maixuya và chinh phục hoàn toàn vương quốc này, Tipu bị tử trận.
Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, những vùng đất giàu có nhất của Ấn Độ như Bengan, các nước xung quanh (Biha, Oritxa, Aođơ) và toàn bộ miền Nam Ấn rơi vào tay thực dân Anh.
Song song với quá trình xâm lược, thực dân Anh nhanh chóng đặt ách thống trị ở Ấn Độ. Cơ quan có toàn quyền cai trị ở đây là Công ti Đông Ấn Độ – “từ một quốc gia thương mại đã biến thành một quốc gia quân sự và có lãnh thổ”. Các chính khách, bởn con buồn và tập đoàn thống trị ra sức củng cố địa vị trong công tỉ để qua đó tăng cường bóc lột Ấn Độ. Nam 1773, Nghị viện Anh thông qua đạo luật về việc cai trị Ấn Độ, quy định tổng đốc của Công ti ở Cancutta đồng thời giữ chức toàn quyền trên toàn bộ lãnh địa Anh ở Ấn Độ. Viên toàn quyền cùng với một hội đồng do chính phủ Anh chỉ định nắm quyền hành chính, bên cạnh có tòa án tối cao. Đổng thời ở Luân Đôn thiết lập một hội đồng kiểm soát các công việc của công ti ở Ấn Độ do nhà vua chỉ định bao gồm một số thành viên của nội các.
Tính chất của sự bóc lột trong thời kì này tương ứng với thời kì tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản Anh. Cho nên thủ đoạn bóc lột chủ yếu là thu thuế và vơ vét. Việc buôn bán giữa Anh và Ấn Độ được tiến hành theo một tỉ lệ thu thuế chênh lệch khá nghiêm trọng : hàng từ Ấn Độ sang Anh đóng thuế gấp 10 lần hãng từ Anh vào Ấn Độ). Hậu quả tất nhiên của sự cướp bóc đó là tình trạng ngày càng cùng khổ của nhân dân Ấn Độ. Nạn đói xảy ra liên tiếp, riêng năm 1770 đã có tới mười triệu người chết đói.
3. Thực dân Anh hoàn thành việc xâm chiếm Ấn Độ và phong trào chống Anh nửa đầu thế kỉ XIX
Ở Ấn Độ, thế kỉ XIX được bắt đầu bằng việc mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Anh và những cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân. Năm 1806, các trung đoàn Xipai nổi dậy ở Benlua (Nam Ấn). Năm 1816 binh lính Ấn khởi nghĩa ở Bombay. Đông đảo quần chúng nông dân đứng lên chống Anh ở khắp nơi. Xeit Acmet Barenui (1786 – 1831) đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của những người theo đạo Hồi, lập căn cứ ở biên giới phía tây bắc. Cấp tiến hơn là phong trào của Đadu Mian ở Bengan vừa chống xâm lược Anh, vừa tấn công vào bọn quý tộc phong kiến. Nhưng do tính chất phân tán, thiếu tổ chức và sự hạn chế về thành kiến tôn giáo nên phong trào bị thất bại. Để hoàn thành mưu đồ xâm lược, thực dân Anh chia mũi nhọn chủ yếu vào các vương quốc của người Marat ở miền Trung Ấn Độ. Ngay từ đầu, nhân dân Mars đã đứng lên đấu tranh chống xâm lược một cách kiên quyết. Nhưng tình trạng cát cứ phong kiến, chiến tranh liên tiếp giữa các vương quốc, sự thiếu năng lực lãnh đạo và mâu thuẫn gay gắt trong các tập đoàn phong kiến tạo nên thời cơ thuận lợi cho thực dân Anh Cuộc chiến tranh năm 1803 – 1805 đem lại cho Anh thêm những phần đất ở miền Trung và ngay thủ đô Đôli cũng bị thất thủ. Đến năm 1817, vương quốc Marat hoàn toàn bị chinh phục. Từ đó, thực dân Anh tiếp tục bành trướng ra xung quanh và bán đảo Ấn Độ. chỉ còn lại một quốc gia độc lập là Penjap.
Đầu thế kỉ XIX, do nhu cầu phát triển kinh tế và tăng cường sức mạnh chống ngoại xâm, khuynh hướng xây dựng một quốc gia tập quyền thể hiện rõ nét ở Penjap. Ranjit Xinh là người hoàn thành nhiệm vụ đó với một chính quyền mạnh mẽ, một quốc gia thống nhất, một đội quân hùng mạnh được nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển quyền lực và mở mang bờ côi, Penjap không tránh khỏi mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn phong kiến ngày càng gay gắt, mâu thuẫn dân tộc giữa người Xích với các dân tộc bị chinh phục như người Casơmia, người Patan… và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị.
Sau khi Ranjit Xinh chết (1839), cuộc tranh chấp giữa các thế lực phong kiến bùng nổ. Quân đội Penjap đã kịp thời chặn đứng những âm mưu phản động. Năm 1841 họ nổi dậy giết bọn sĩ quan phản động thành lập các “pantraiar” là những ủy ban do họ cử ra gồm 5 người. Pantraiat ở thủ đô Laho đã giành quyển kiểm soát những hành động của Chính phủ.
Bọn phong kiến Penjap lo sợ trước sức mạnh của quần chúng và hoạt động của các pantraiat đã cấu kết với thực dân Anh là kẻ đang muốn thanh toán nốt mảnh đất độc lập cuối cùng ở Ấn Độ. Cuối năm 1845, quân đội và nhân dân Penjap chiến đấu dũng cảm chống bọn xâm lược Anh. Nhưng do sự phản bội của bọn phong kiến, trong đó bọn sĩ quan cao cấp đã trao cho địch kế hoạch quân sự nên nghĩa quân bị thất bại. Penjap trở thành thuộc quốc của Công ti. Năm 1848, nhân dân Penjap kiên cường lại nổi dậy chống Anh, giành được thắng lợi ban đầu, nhưng sau đó bị thất bại.
Đến năm 1849, thực dân Anh hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ đất đai Ấn Độ,
4. Chính sách thống trị của thực dân Anh ở Ấn Độ
Hành chính. – Ban đầu, công cụ để tiến hành xâm lược và thống trị của thực dân Anh ở Ấn Độ là Công ti Đông Ấn Độ. Trong suốt thời gian 2 thế kỉ, hoạt động của Công tì nằm trong tay một nhóm độc quyền được sự ủng hộ và kiểm soát của chính phủ. Trong quá trình phát triển của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản Anh đông đảo và lớn mạnh thêm, đòi buôn bán tự do với các nước phương Đông. Năm 1813, Nghị viện Anh bãi bỏ độc quyền của Công ti trong việc buôn bán với Ấn Độ, nhưng vẫn duy trì bộ máy hành chính của nó. Đến năm 1832 đạo luật cải cách nghị viện làm tăng uy thế của tư sản công thương nghiệp, độc quyền của Công tỉ bị tước bỏ hoàn toàn những nó vẫn có quyền lực lớn trong việc cai trị Ấn Độ.
Thực dân Anh đặt ách thống trị ở Ấn Độ dưới danh nghĩa là kẻ được nhà vua Đại Môgôn ban cho quyền hành đó. Giai cấp phong kiến Ấn Độ trở thành chỗ dựa của chúng và hoàng đế Mogốn thành vua bù nhìn.
Thực dân Anh lợi dụng sự khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo và sự tồn tại của nhiều vương quốc để áp dụng chính sách chia để trị. Trong vùng Ấn Độ thuộc Anh, chúng duy trì những quốc gia lớn như Haiderabat, Maixuya, nhưng cũng có những quốc gia nhỏ chỉ bao gồm vài trăm ngàn dân.
Trong thời gian đầu, công cụ cai trị chủ yếu là quân đội, bộ máy tư pháp và thu thuế. Đến những năm 30 của thế kỉ XIX, quyền lực tập trung vào tay những tên trưởng khu năm quyền hành chính, thu thuế và tư pháp. Tự y có thể xét xử, kết án và thi hành bản án đối với người không nộp thuế.
Chế độ ruộng đất. – Khi thực dân Anh đặt chân lên Ấn Độ thì nền kinh tế ở đây chủ yếu là nông nghiệp. Vì vậy, chúng không thể không chú ý ban hành một số chính sách ruộng đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc vơ vét bóc lột.
Năm 1793, chúng bắt đầu áp dụng “chế độ Daminda vinh viên”, Trước đây, Daminđa là những người thấu thuế trên từng khu vực nhất định. Họ thu thuế của nông dân trong những công xã thuộc khu vực đó, đem nộp một phần cho nhà nước và một phần được hưởng. Theo chế độ mới áp dụng ở Bengan, Biha, Oritza… thì Daminđa được quyền sở hữu trên những mảnh đất mà họ thu thuế và được tự do sử dụng đất đai của công xã. Như vậy, quyền thừa kế ruộng đất và các quan hệ ruộng đất trong công xã nông thôn bị thủ tiêu. Các Daminda trở thành tầng lớp địa chủ mới với những quyển hành phong kiến trước đây. Họ nộp cho Công ti theo mức cố định vĩnh viễn bàng 9/10 số thuế thu được của nông dân năm 1790 và khi nào không nộp đúng kì hạn thì ruộng đất của họ bị thu lại và bản đấu giá. Do đó, Daminđa thỏa sức bóc lột nông dân dưới hình thức thuế và các thứ lao dịch khác. Đương nhiên, Daminda trở thành kẻ đồng minh và chỗ dựa xã hội của chủ nghĩa thực dân Anh. Một phần tư bản đáng lẽ được đưa vào kinh doanh công thương nghiệp thì lại được đầu tư vào ruộng đất. Một số nhà buôn mua đất cũng trở thành Daminda.
Năm 1822, ở miền Trung Ấn, thực dân Anh áp dụng chế độ Daminda tạm thời”. Về cơ bản giống như chế độ “Daminđa vĩnh viễn”. Nhưng vì tình hình giá cả và thu hoạch thay đổi, bọn Daminđa kiếm được nhiều lai nên cứ khoảng 25 – 30 năm, Công ti quy định lại số thuế một lần để tăng số thu nhập của Công ti. Khác với nơi có chế độ Daminđa vĩnh viễn, ở vùng này Daminđa không phải là đại phong kiến mà thường là loại phong kiến trung và nhỏ.
Ở miền Nam (Madrat, Bombay…) là nơi vốn có chế độ tư hữu ruộng đất, thực dân Anh không thể tịch thu ruộng đất của nông dân cho Daminda, nên chúng thì hành chế độ Raistuari”. Theo đó, nông dân vẫn cày cấy trên những trang trại cũ nhưng phải nộp thuế cho Công ti. Công tị Đông Ấn Độ biến thành một tập đoàn phong kiến đặc biệt. Thuế thu bằng tiến quá nặng làm cho người nông dân rơi vào vòng bóc lột của bọn cho vay lãi. Nông dân bị bóc lột tàn khốc và bị trói chặt vào mảnh ruộng, đời sống sa sút rõ rệt.
Chính sách ruộng đất của thực dân Anh dẫn đến hậu quả là một mặt tăng cường vơ vét bóc lột nhân dân Ấn Độ, mặt khác tạo nên một cơ sở xã hội vững chắc cho chúng là bọn Daminda và các tầng lớp phong kiến khác. Công xã nông thôn bị phá vỡ. Ruộng đất và các địa sản khác của Công xã như đất hoang, bãi chăn nuôi, rừng, mỏ đều thuộc quyền sở hữu của Công ti. Chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến không bị thủ tiêu mà trái lại được duy trì và củng cố dưới quyền hành vô hạn của Công ti Đông Ấn Độ.
Đồng thời, thực dân Anh mở những đón điển rộng lớn trồng thuốc phiện, chàm, cà phê, thuốc là để đem bán trên thị trường. thế giới. Thuốc phiện trồng ở vùng Bengan chiếm vị trí quan trọng trong việc buôn bán giữa Anh với Trung Quốc và trở thành ngôi nổ của cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc.
Công thương nghiệp – Đối với nước Anh tư bản chủ nghĩa, Ấn Độ là một thuộc địa giấu có nguyên liệu đáp ứng nhu cầu của nền công nghiệp và là một thị trường tiêu thụ hàng hóa, đem lại nguồn lợi nhuận to lớn.
Thực dân Anh thi hành chính sách thuế quan không bình đẳng : thuế hàng hóa của Anh nhập vào Độ chỉ bằng 2 – 3,5% giá trị hàng hóa trong khi hàng Ấn Độ nhập vào Anh phải chịu thuế 20 – 30%. Sự chênh lệch đó làm cho hàng hóa Anh tràn ngập thị trường Ấn Độ với giá rẻ và chất lượng tốt hơn. Ấn Độ từ một nước xưa này xuất khẩu vài biến thành nơi nhập khẩu vải của Anh.
Tình hình đó làm cho nền thủ công nghiệp lâu đời của Ấn Độ bị tàn lại và hàng chục vạn thợ thủ công bị phá sản. Ở vùng Madrat, trong vòng ba mươi năm đầu thế kỉ XIX, mức thu nhập của thợ dệt giảm 75% và gần 60% thợ dệt biến thành con nợ của bọn cho vay. Nhiều thành thị xưa kia nổi tiếng về các sản phẩm thủ công bị suy tàn dần.
Trong khi đó, một số hài cảng được mở rộng, đường sắt được xây dựng, một số xưởng lấp ráp hoặc sửa chữa xuất hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc vơ vét của cải và chuyên chở hàng hóa giữa Anh và Ấn Độ. Góp phần vào việc khai thác thuộc địa và buôn bán sàn phẩm công nghiệp của Anh là tầng lớp tư sản mại bản Ấn Độ mới ra đời, có quyền lợi gắn liền với chủ nghĩa tư bản Anh. Một bộ phận tư sản công nghiệp Ấn Độ bắt đầu mở những công trường thủ công nhỏ bé, chịu sự kiểm soát và chèn ép của từ bản Anh. Bombay và Cancutta là hai trung tâm công thương. nghiệp lớn của Ấn Độ hoàn toàn nằm trong vòng khống chế của nền thống trị thực dân Anh.
Văn hóa giáo dục – Cùng với sự bóc lột về kinh tế, thực dân Anh thi hành chính sách ngu dân khuyến khích những tập quán lạc hậu và phản động của thời cổ xưa.
Tuy nhiên, thực dân Anh không thể nào bóp chết được sức sống mãnh liệt của nền văn hóa dân tộc. Người tiêu biểu cho trào lưu văn hóa tiến bộ khi đó là Ram Mohan Rồi (1772 – 1833). Ông đấu tranh đòi xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, truyền bá kiến thức khoa học vào nhân dân. Ông giữ địa vị xuất sắc trong nền văn học Bangan.
Sau hơn hai thế kỉ, thực dân Anh đã hoàn thành giai đoạn xâm lược Ấn Độ và biến nơi đó thành thuộc địa để vơ vét, bóc lột và tiêu thụ hàng hóa. Hậu quả tất nhiên của nó là tình trạng bản cùng và chết đói của quần chúng nhân dân, cơ sở ruộng đất công xã nông thôn bị phá vỡ, nên thủ công nghiệp bị suy sụp, nên văn minh lâu đời bị phá hoại. Tuy nhiên có một số yếu tố mới xuất hiện do yêu cầu của chủ nghĩa tư bản Anh như sự phát triển đường giao thông và các phương tiện vận tải liên lạc, việc khai thác hầm mỏ… Việc xây dựng các thành phố và hải cảng thuộc địa.