Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ đầu thế kỉ XX
1. Chính sách bóc lột và âm mưu chia cắt Bengan của thực dân Anh
Đến thế kỉ XX, chủ nghĩa thực dân Anh tăng cường bóc lột Ấn Độ để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong nước. Vốn đầu tư vào Ấn Độ tăng lên nhanh chóng trong các ngành đường sắt, thủy lợi, đón điển, khai mỏ, dệt và công nghiệp thực phẩm.
Tư bản Anh chiếm độc quyền trong việc kinh doanh đón điển ở Bengan, Atxam và miền Nam, đồn điền cà phê ở Maixo, đón điển cao su ở Toravanco, toàn bộ công nghiệp chế biến nước quả ở Cancutta, phần lớn xưởng cơ khí và nhà máy dệt ở Bombay, hầu hết ngành đường sắt và khai mộ trong nước. Hơn 90% ngoại thương ở trong tay 5 công ti lớn của Anh. Năm 1905, 165 công ti tư bản có đăng kí ở Anh hoạt động ở Ấn Độ, số vốn của những công ti đó vượt gấp ba lấn số vốn của các công ti (của người Anh và người Ấn Độ) đang kí ở ngay Ấn Độ. Đồng thời, lương thực và nguyên liệu công nghiệp của Ấn Độ xuất khẩu vẫn không ngừng tang lên. Nếu lấy mức xuất khẩu năm 1892 – 1897 là 100 thì trong khoảng 1901 – 1905, lúa mạch là 276, bông là 143, đay là 127. Món tiến của Ấn Độ vay Anh tăng từ 133 triệu lên 177 triệu livrơ trong khoảng thời gian từ 1900 đến 1913.
Do hậu quả của sự bóc lột nặng nề, thu nhập của người dân Ấn Độ giảm xuống một nửa, từ 1,5 pen-xơ xuống 0,75 pen-xơ mỗi ngày. Cùng với việc đế quốc Anh tăng cường kiểm soát kinh tế ở Ấn Độ, bọn địa chủ phong kiến cũng ra sức bóc lột nông dân. Địa tô ngày một tăng, đông đảo nông dân mất ruộng đất và bị trói chặt vào vòng vây của địa chủ và chủ nợ. Nạn đói và bệnh dịch hoành hành. Trong vòng 10 năm từ 1896 đến 1906 có hơn 10 triệu người chết đới và riêng nạn dịch hạch năm 1904 đã làm chết 1 triệu người.
Tình hình đó làm cho lòng bất mãn trong nhân dân sôi sục. Trong những năm đầu thế kỉ XX, làn sóng khởi nghĩa của nông dân và của các bộ lạc lan tràn khắp miền Trung và miền Tây Bắc. Những người phải THác hoạt động ráo riết ở các thành phố.
Phó vương Anh Kécdôn (1899 – 1905) tiến hành một đợt khủng bố dữ dội vào phong trào yêu nước, hạn chế việc học của người Ấn ở các trường đại học vì chúng cho rằng sinh viên là những người gây ra phiến loạn”. Chính sách thâm độc của y là định tiến hành chia cắt Bengan thành hai tỉnh miền Đông và miền Tây. Bengan vốn là vùng kinh tế phát triển và trở thành một trung tâm của phong trào đấu tranh giải phóng Ấn Độ hối đó. Việc chia cắt Bengan thành miền Tây (với Biha và Orítxa) và miền Đông (với Atxam) dựa trên cơ sở khác biệt tôn giáo nhằm khơi sâu sự chia rẽ dân tộc. Phần lớn nông dân ở miền Đông theo đạo Hồi, chỉ có địa chủ, bọn cho vay nặng lai và thương gia lớn theo đạo Ấn Độ. Trong khi đó thì đạo Ấn Độ chiếm ưu thế ở miền Tây. Thực dân Anh xúi bẩy cả hai bên, gây nên sự đối lập để dễ bề cai trị. Việc chia cắt Bengan còn nhằm mục đích kinh tế : thực hiện ở tỉnh mới chế độ Daminđa tạm thời có lợi cho bọn Anh nhiều hơn chế độ Daminđa vĩnh viễn. Tư bản Anh tăng cường bỏ vốn xây dựng càng Sittahông để lấn át cảng Cancutta là nơi từ sản Ấn Độ có ảnh hưởng lớn.
Đương nhiên, các tầng lớp nhân dân Ấn Độ đã thấy âm mưu của bọn xâm lược. Làn sóng phản đối lan tràn trong cả nước và cuộc đấu tranh chống chia cắt Bengan đã đưa những hoạt động chống Anh lên một bước mới.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ năm 1905. Khẩu hiệu ‘Xvadêsi” và “Xvaratji”
Tháng 7 – 1905, nhà cầm quyền Anh công bố quyết định chia cắt Bengan. Như một ngôi lửa, cả đám cháy bùng lên.
Tham gia cuộc đấu tranh chống chia cắt Bengan có tư sản dân tộc và cả tầng lớp Daminđa ở đó vì họ lo sợ phải đóng thêm tiền thuế ruộng đất. Nhưng lực lượng đồng đảo và kiên quyết vẫn là quần chúng nhân dân. Tháng 8, nhiều cuộc mít tinh, biểu tình diễn ra ở Cancutta và các thành phố lớn. Nhiều nghị quyết tẩy chay hàng Anh được thông qua. Ngày 16-10-1905 đạo luật chia cắt Bengan bắt đầu có hiệu lực được coi là ngày quốc tang. Ở vùng Bengan các gia đình đều không nhóm bếp, mọi người ăn chay, nhà máy, cửa hiệu và chợ búa đóng cửa. Hàng vạn người vừa hát bài ca Kính chào Người, Mẹ hiền – Tổ quốc vừa tiến ra bờ sông Gang làm lễ tuyên thệ đấu tranh vì Tổ quốc. Viên chức ở các cơ quan của Anh đến công sở bằng chân đất, tay xách giấy để tỏ thái độ phản kháng bọn thực dân Anh. Mọi người dân Bengan đều đeo một băng đỏ ở tay tượng trưng cho sự thống nhất dân tộc.
Cuộc đấu tranh mang tính chất quán chúng diễn ra dưới khẩu hiệu “Xuadesi” (Xva : của mình, đèsi : đất). Mục đích chủ yếu ban đầu của phong trào “Xvadbsi” là phát triển nên sản xuất dân tộc, tẩy chay hàng nước ngoài. Những người đề xướng phong trào kêu gọi thu thập các phương tiện để phát triển nên sản xuất trong nước, triển lãm hàng nội hóa, thành lập các hợp tác xã “Xvadesi”, ngăn lối vào các cửa hàng Anh.
Nhưng phong trào không thu hẹp trong phạm vi đó. Với sự tham gia của đông đảo quần chúng, các hoạt động tiến hành dưới hình thức câu lạc bộ thể thao, hiệp hội, mít tinh, bãi công… Ý nghĩa của khẩu hiệu “Xvadesi” được mở rộng. Trong cuộc mít tinh ở Cancútta Tilúc phát biểu : *Xvadêsi bao hàm tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống. Xvadesi phù hợp với cái mà người Anh gọi là sự thống nhất dẫn tộc và lòng yêu nước”. Sau đó, “Xvađêsi” được bổ sung thêm khẩu hiệu “Xuaratji” có nghĩa là nên tự trị của mình. Trong các cuộc đấu tranh quán chúng hô vang khẩu hiệu “Ấn Độ của người Ấn Độ. Phong trào lan sang Penjap, Bombay và nhiều nơi khác trong nước. Cuộc đấu tranh giải phóng ở Ấn Độ thể hiện tính chất dân tộc và quần chúng, thu hút đông đảo nông dân, công nhân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc.
Tiếng vang của phong trào “Xvadesi” tác động mạnh mẽ đến hoạt động của đảng Quốc đại. Chiếm ưu thế trong ban lãnh đạo đảng là phải “ôn hòa”, thể hiện quyền lợi của tư sản tự do và một bộ phận địa chủ. Họ tìm cách duy trì phong trào trong phạm vi hòa bình, hợp pháp và cải cách. Theo họ, “Xvaratji” chỉ có nghĩa là yêu sách về một nên tự trị rất hạn chế trong khuôn khổ của đế quốc Anh, “Xvadesi” chỉ nhằm đòi thực hiện chính sách bảo hộ thuế quan, đòi nhà nước giúp đỡ nên công nghiệp Ấn Độ.
Nhưng phải cấp tiến và quần chúng coi những khẩu hiệu đó như một lời kêu gọi đấu tranh cho nên độc lập dân tộc Ấn Độ. Họ chủ trương xây dựng một nước “Ấn Độ độc lập và dân chủ, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang chủ trương mở rộng đấu tranh tẩy chay hàng Anh và tổ chức cuộc vận động quần chúng chống bọn cầm quyền.
3. Phong trào “Xvadêsi” tiếp tục phát triển và sự phân liệt trong đảng Quốc đại
Phong trào Xvadesi ngày càng được đông đảo quần chúng tham gia và không ngừng lớn mạnh. Năm 1906, nhiều tờ bảo tiến bộ được xuất bản, các hội yêu nước ra đời ở Bengan và lan sang các tỉnh. Thành viên của các hội đó chủ yếu là người quốc gia tiểu tư sản, được gọi là những người “Tình nguyện dân tộc”, đi tuyên truyền cho khẩu hiệu “Xvadêsi” ở thành thị và nông thôn. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình được đông đảo quần chúng công nhân và nông dân tham gia. Từ cuối năm 1905 nổ ra nhiều cuộc bài công của công nhân đường sắt, ngành dệt và các ngành khác. Ngoài những yêu sách kinh tế, những người bãi công đã đưa ra khẩu hiệu chính trị chống chính quyền thực dân Anh và thành lập các nghiệp đoàn của công nhân. Một bộ phận công nhân đường sắt của công ti Đông Ấn bài công vào tháng 7 – 1906 được sự hưởng ứng mạnh mẽ trong cả nước. Mùa xuân năm 1907 ở Đông Bengan nổ ra cuộc đấu tranh rộng lớn của nông dân chống Daminda và bọn cho vay nặng lãi.
Từ đầu năm 1907, Penjap trở thành trung tâm quan trọng của phong trào cách mạng Thực dân Anh tuyên bố tăng thuế ruộng và thuế nước, dự định tước đoạt của người Ấn Độ quyển sở hữu ruộng đất ở những nơi xây dựng công trình thủy lợi mới. Điều đó gây nền làn sóng bất mãn trong quần chúng nông dân. Ở các thành phố nhiều cuộc mít tinh được tổ chức với sự tham gia của đông đào công nhân, tiểu tư sản, tư sản và một bộ phận binh lính. Nhân vụ xử án những người yêu nước ở tỉnh Ravapinđi, công nhân đường sắt tuyên bố bài công để phản kháng. Ngày 1 – 5 – 1907, hàng ngàn công nhân và nông dân biểu tình bao vây tòa án, tấn công vào các công sở. Các thành phố lớn ở Penjap đều hưởng ứng, bọn thực dân khủng bố để dập tắt phong trào.
Phong trào cũng phát triển mạnh ở Bengan với sự ra đời của các hội bí mật lãnh đạo cuộc đấu tranh đập phá hàng Anh. Nhiều cuộc xung đột xảy ra giữa những người biểu tình và cảnh sát. Nhiều cuộc bãi công diễn ra tại các thành phố trung tâm công nghiệp.
Tháng 11 – 1907, công nhân đường sắt Công ti Đông Ấn ở Bombay một lần nữa tiến hành tổng bãi công, cắt đứt đường giao thông từ Cancutta đi các nơi trong 10 ngày liền. Mọi hoạt động kinh tế trong nước bị ngưng trệ.
Những sự kiện đó chứng tỏ phong trào giải phóng Ấn Độ đang chuyển cuộc vận động Xvadeai từ tẩy chay sang các cuộc biểu tình và bãi công mang tính chất chính trị trong toàn quốc. Công nhân Ấn Độ đóng một vai trò quan trọng trong phong trào
Trước tình hình đó, bọn cầm quyền thực dân thi hành một số biện pháp xảo quyệt. Một mặt, chúng đàn áp quần chúng rất khốc liệt. Chúng ban hành luật cấm mít tinh, biểu tình và bài công đóng cửa các tờ báo tiến bộ, bắt giam các nhà hoạt động yêu nước. Mặt khác, chúng tìm cách lôi kéo tăng lớp trên, tuyên bố sẽ tiến hành cải cách, đặc biệt là ban hành luật bầu cử hội đồng lập pháp hàng tỉnh. Chúng cho ra đời một tổ chức tôn giáo là “Liên đoàn Hồi giáo”, đồng thời thành lập một tổ chức đối lập là “Liên đoàn vĩ đại của người Ấn Độ giáo” với mưu đồ khơi sâu mối hiềm khích giữa hai giáo phái.
Trước tình hình đó, phái ‘ôn hòa” trước đây đã hạn chế khẩu hiệu Xvađêsi trong phạm vi tẩy chay hàng Anh thì nay đòi chấm dứt cuộc đấu tranh chống chính phủ. Trong phiên họp cuối năm 1907, sự phân liệt trong đàng Quốc đại bộc lộ rõ rệt. Phái “ôn hòa” quyết nghị khai trừ Tilúc và những người cấp tiến ra khỏi đảng với đa số phiếu. Những người theo Tilác chủ trương thành lập đảng Dân tộc, nhưng đảng đó bị đặt ngoài vòng pháp luật. Hoạt động của những người cấp tiến gặp nhiều khó khăn do sự đàn áp của chính quyền thuộc địa, do thiếu một tổ chức có tính chất toàn quốc và sự bất hòa trong nội bộ. Tuy nhiên, phong trào đấu tranh vẫn còn tiếp diễn mạnh mẽ.
4. Phong trào đấu tranh nửa đầu năm 1908 và cuộc tổng bãi công của công nhân Bombay
Đến đầu năm 1908, phong trào đấu tranh tiếp tục lên cao, đặc biệt là những cuộc bãi công của công nhân đường sắt và công nhân dệt ở Bombay. Những cuộc đấu tranh lớn diễn ra ở miền Nam Ấn Độ. Trong phong trào Xvadesi, Công ti đường thủy Ấn Độ được thành lập. Nó gặp sự cạnh tranh kịch liệt của bọn chủ tàu Anh Cuộc cạnh tranh này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà mang tính chất chính trị. Đứng đầu công ti đường thủy là Pinlai, một thủ lĩnh của phái cấp tiến. Đông đảo quần chúng hưởng ứng lời kêu gọi của Pinlai, đấu tranh chống Anh và công nhân xưởng máy của Anh ở Tuticôrin đã bãi công.
Tháng 3 – 1908, khi bọn cầm quyền Anh bắt Pinlai và những người yêu nước khác, các cuộc đấu tranh phản kháng bùng nổ ở Tuticdrin và thành phố bên cạnh là Tinevanki. Những người biểu tình đập phá các trại cảnh sát và các công sở, dùng đá và gậy đánh lui bọn đàn áp, nhiều cuộc xung đột đẫm máu xảy ra trên các đường phố.
Tháng 6-1908, bọn thực dân bắt THắc và đưa ra xử án. Tiếc đã hào hùng và dùng cảm dùng tòa án làm diễn đàn lên án chủ nghĩa thực dân Anh. Ông bị kết án 6 năm tù khổ sai.
Tin tức về vụ án Tilắc lại làm bùng lên một đợt đấu tranh mới trong cả nước. Những cuộc mất tinh và biểu tình diễn ra ở khắp các thành phố. Công nhân Bombay đứng ở hàng đầu. Hưởng ứng lời kêu gọi của phái “cấp tiến”, nhiều cuộc bãi công chính trị bùng nổ.
Ngày 13 – 7, số người bãi công có vài nghìn. Đến 14 – 7 có 4 vạn, 17 – 7 có 6 vạn. Đến ngày tuyên án 22 – 7, công nhân Bombay truyền đi lời kêu gọi : “Hãy trả lời mỗi năm tù của Tilác bằng một ngày tổng bài công. Ngày 23 – 7, cuộc bãi công của công nhân Bombay trở thành tổng bài công với 10 vạn người tham gia. Các chiến lũy được dựng lên trên đường phố. Công nhân dùng gậy và đã đánh lui nhiều đợt trấn áp của quân đội và cảnh binh. Mặc dấu bị khủng bố dữ dội, cuộc tổng bãi công kéo dài đúng 6 ngày như dự định ban đầu.
Cuộc tổng bãi công ở Bombay là một cuộc đấu tranh chính trị lớn đầu tiên của giai cấp vô sản Ấn Độ. Công nhân đã xuống đường biểu dương lực lượng và bênh vực những người lãnh tụ của phong trào yêu nước. Nó chứng tỏ rằng “giai cấp vô sản Ấn Độ đã trưởng thành, có thể tiến hành cuộc đấu tranh chính trị tự giác mang tính chất quần chúng
Cuộc đấu tranh của công nhân Bombay năm 1908 là đỉnh cao nhất của phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ trong những năm đầu thế kỉ XX. Sau đó, phong trào đi vào giai đoạn tan rã.
5. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử của phong trào đấu tranh 1905 – 1908
Phong trào cách mạng năm 1905 – 1908 đã diễn ra sôi nổi và lan rộng trong cả nước Ấn Độ. Dưới khẩu hiệu “Xvadesi” và “Xvaratji” thăm nhuẩn tính chất dân tộc, các tầng lớp nhân dân Ấn Độ đã vùng lên đấu tranh chống ách thống trị thực dân một cách dũng cảm và kiên trì trong mấy năm trời. Tham gia cuộc đấu tranh, ngoài đông đảo nông dân còn có giai cấp tư sản dân tộc mới ra đời và giai cấp công nhân non trẻ. Người lãnh đạo phong trào là giai cấp tư sản. Nhưng tình trạng thiếu thống nhất dân tộc, hiểm khích tôn giáo cùng với những cuộc trấn áp dữ dội và chính sách chia rẽ của thực dân Anh làm cho những cuộc nổi dậy diễn ra không đồng đều và cuối cùng bị dập tắt.
Tuy nhiên, phong trào cách mạng năm 1905 – 1908 đã một lần nữa thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí chống xâm lược của nhân dân Ấn Độ. Nó mang tính chất dân tộc rõ rệt và tính chất quần chúng rộng rãi. Đồng thời phong trào đó diễn ra cùng lúc với cao trào đấu tranh chống xâm lược đang lan ra ở các nước châu Á góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức.