Phong trào đấu tranh chống thực dân của nhân dân Châu Phi
Quyển hành không hạn chế và sự áp bức bóc lột vô cùng dã man của bọn thực dân châu Âu đã làm tổn thương đến tinh thần dân tộc và đời sống của nhân dân châu Phi. Nhân dân châu Phi rên xiết dưới ách nô dịch của thực dân xâm lược. Lúc mới bị xâm chiếm, dân số ở đây có gần 20 triệu, nhưng đến đầu thế kỉ XX chỉ còn lại 8 hoặc 9 triệu người. Đế quốc thực dân Anh là kẻ bóc lột chủ yếu ở châu Phi. Chúng đã gây ra nhiều vụ thảm sát trong cuộc chiến tranh chống nhân dân Đông Xuđan, biến Kháctum thành một lò giết người ghê rợn, chém đầu tù binh và đem treo ở tường thành. Trong chiến tranh Anh – Bôơ, thực dân Anh hoành hành dữ dội, lập các trại tập trung để nhốt phụ nữ và trẻ em, v.v…
Thực dân xâm lược càng tàn ác bao nhiêu, càng bị nhân dân châu Phi nổi dậy chống lại quyết liệt bấy nhiêu. Đứng đầu phong trào đấu tranh chống thực dân xâm lược, giành độc lập dân tộc là giai cấp tư sản dân tộc còn non yếu, sĩ quan, tầng lớp trên bị chèn ép, và một số giáo sĩ. Điều đó tất nhiên có hạn chế đến kết quả, của cuộc đấu tranh. Nhưng lực lượng quyết định là quần chúng nhân dân đông đảo, chủ yếu là nông dân – thành phần chủ lực của nghĩa quân. Giai cấp công nhân mới bắt đầu xuất hiện ở một số thành phố còn non yếu. Nói chung khắp mọi nơi trên lục địa châu Phi, ở đâu bọn thực dân xâm lược đặt chân đến là ở đó có những cuộc nổi dậy chống lại.
1. Phong trào đấu tranh của nhân dân Angiêri chống thực dân Pháp xâm lược
Từ năm 1830 đến năm 1847 các bộ lạc ở Angiêri đã nổi dậy chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Ápen Kade.
Ápen Kade đã vận động phong trào dân tộc khởi nghĩa ở vùng Tây miền Maxcava vào năm 1832. Dưới khẩu hiệu “bài công giáo” ông đã có ảnh hưởng lớn trong quần chúng Hồi giáo. Tháng 6 năm 1835, ông chỉ huy nghĩa quân Angiêri phục kích quân Pháp và tháng trận lớn ở đèo La Macla, buộc Pháp phải kí hòa ước năm 1837. Ông lợi dụng thời gian tạm ngừng chiến để chuẩn bị lực lượng, bí mật liên lạc với Anh và Marốc để tấn công quân Pháp. Năm 1839 ông lãnh đạo nghĩa quân tấn công vào đồng bằng Mitiga. Nhưng chính phủ Pháp tổ chức đàn áp Angiêri với quy mô lớn, số quân viễn chính lên tới 11 vạn rưỡi, với các tướng tá có kinh nghiệm quen đánh ở các thuộc địa. Ápen Kade phải trốn sang Maroc và trở về phản công thắng lợi ở Xiđi Brahin. Nhưng, sau trận thắng cuối cùng này, Ápen Kade bị vây bắt năm 1847. Sau đó Angiêri trở thành thuộc địa của Pháp. Cuộc kháng chiến của nhân dân Angiêri tuy thất bại nhưng có tiếng vang rất lớn đến các thuộc địa, và tên tuổi của Ápen Kade được các dân tộc bị áp bức ghi nhớ sâu sắc.
2. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Ai Cập
Thực dân Anh cũng như Pháp đều muốn chiếm Ai Cập, nhất là sau khi kênh đào Xuyê khánh thành năm 1869. Mặc dấu chế độ kênh là trung lập quốc tế, Anh vẫn tìm cách mua cổ phần để tham gia việc quản lí kênh, tìm cách kiểm soát tài chính Ai Cập. Anh lợi dụng lúc Ixmain (Ismail) được vua Thổ phong vương, tiêu hoang phí phải vay của Anh và Pháp một số tiền lớn rối cuối cùng phải nhường cho Anh cổ phản Xuyê vào năm 1875 và từ đó Anh đẩy mạnh việc xâm chiếm Ai Cập.
Năm 1878 ở Ai Cập thành lập chính phủ mà người ta gọi là “Nội các châu Âu” vì trong chính phủ đó, người Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính và người Pháp giữ chức Bộ trưởng Bộ Lao động. Chính phủ đặt dưới quyền của Nuba Pasa thân Anh, tìm cách tăng mọi thứ thuế và giảm quân đội. Điều đó làm cho nhân dân yêu nước Ai Cập phẫn nộ. Tháng 4 năm 1879, 300 sĩ quan Ai Cập gửi thư cho Chính phủ đòi thải hồi các bộ trưởng ngoại quốc ra khỏi Chính phủ. Do áp lực của sĩ quan và sự phẫn nộ của đông đảo quần chúng nhân dân Ai Cập, Chính phủ buộc phải thực hiện yêu cầu đó và thành lập nội các mới do Serip Pasa đứng đầu, trong đó không còn bộ trưởng người nước ngoài nữa.
Anh cũng như Pháp đòi vua Thổ lật đổ Ixmain và đem Chiuphích lên ngôi. Vua mới Chiuphích (Tewfik) công nhận việc kiểm soát tài chính của Anh, Pháp và giảm số lượng quân đội Ai Cập xuống chỉ còn lại 18.000 người. Điều đó làm cho sự công phần của nhân dân Ai Cập càng lớn và phong trào giải phóng dân tộc ngày càng lên cao. Đứng đầu phong trào này là tầng lớp tư sản dân tộc còn non trẻ, tầng lớp sĩ quan trong quân đội Ai Cập, các trí thức và một số địa chủ yêu nước Ai Cập. Họ liền kết lại với nhau dưới khẩu hiệu “Ai Cập của người Ai Cập” và thành lập một tổ chức chính trị của mình là Đảng Quốc gia.
Tháng 5 năm 1880, một nhóm sĩ quan lại nổi dậy phản đối việc thải hồi sĩ quan, chống lại việc bất binh lính Ai Cập làm những việc lao dịch và đòi phải tôn trọng họ. Đầu năm 1881, đại tá Atmet Arabi đứng đầu một nhóm sĩ quan tổ chức khởi nghĩa đòi thải hối Bộ trưởng Chiến tranh. Atmet Arabi là con một gia đình nông dân, là nhà chính trị của Đảng Quốc gia. Ông hiểu được quân đội là lực lượng có tổ chức duy nhất ở Ai Cập và đóng vai trò quan trọng trong phong trào giải phóng dân tộc giành độc lập. Ông đã ủng hộ nông dân. Cuộc khởi nghĩa do Arabi chỉ huy chiếm Bộ Chiến tranh, bỏ tù tên bộ trưởng, đòi nội các từ chức, đòi tăng cường quân đội và đòi thảo ra hiến pháp mới. Nhà vua phải đóng ý với những yêu sách của Đảng Quốc gia và nghĩa quân. Sau hai lần thay đổi nội các, Arabi giữ chức Bộ trưởng chiến tranh. Việc đó làm cho bọn đế quốc thực dân Anh cũng như Pháp không yên lòng. Anh đã tổ chức cho Thổ xâm nhập vào Ai Cập, nhưng không thành. Pháp cũng định tổ chức một cuộc kiểm soát giữa Anh và Pháp về Ai Cập, nhưng Anh phản đối việc đó vì muốn thống trị Ai Cập một mình. Cuối cùng Pháp không dám can thiệp. Anh còn phản đối trong một bức công hàm gửi cho Chiuphích, đòi nội các mới từ chức, đòi đày Arabi và đuổi các nhà lãnh đạo Đảng Quốc gia ra khỏi Cairô. Nhưng vì cuộc nổi dậy ở Cairô cũng như ở Alłchxăngdria nên Chiuphích không dám làm gì. Cuối cùng, ngày 11-7-1882 tư lệnh hải quân Anh ra lệnh bản 10 giờ liền vào Alêchxăngđria, đổ bộ 25.000 tên lính và chiếm thành phố này. Chiuphích phân bội chạy đến Alêchxăngđria.
Lúc này, một cuộc hội nghị được triệu tập ở Cairô gồm có đại biểu quý tộc và sĩ quan Ai Cập. Hội nghị tổ chức tự vệ chống lại sự xâm nhập của quân viễn chinh Anh, tuyên bố phế truất Chiuphích và chỉ định Arabi làm tổng tư lệnh quân đội. Quân đội của Arabl gồm khoảng 19.000 người và 40.000 lính mới nhập ngũ, có nhiều đạn dược và vũ khí, trong đó có 500 đại bác. Nhưng trong việc thực hiện chiến thuật quân sự đó, đại tá tổng tư lệnh Arabi phạm sai lầm nghiêm trọng về quân sự và chính trị là ông đã không tăng cường lực lượng chiến đấu ở khu vực kênh đào Xuyên và cho rằng, thực dân Anh không thể vi phạm quy định trung lập của kênh này. Nhưng thực dân Anh không đếm xỉa đến điều quy định về trung lập kênh đào Xuyê mà dùng đường đó để tấn công Ai Cập. Ngày 13-9-1882 quân Arabi bị thua. Ngày 14-9 quân viễn chính Anh chiếm đóng kênh Xuyê, chiếm Cairô và chiếm nhanh toàn bộ Ai Cập, đánh bại quân khởi nghĩa, Arabi bị bắt và bị đi đày.
3. Nhân dân Đông Xudan nổi dậy chống thực dân Anh
Đây là một sự kiện lớn trong lịch sử phong trào chống xâm lược của nhân dân châu Phi. Cuộc nổi dậy của nhân dân Đông Xuđan năm 1885 đã buộc bọn đế quốc xâm lược phải tạm dừng việc phân chia Đông Phi trong một thời gian khá dài.
Trước đây, vùng Đông Xuđan thuộc Ai Cập, nhưng từ năm 1882 tách khỏi Ai Cập. Nhân dân vùng thượng lưu sông Nin thành lập một đội quân tôn giáo do Muhamét At mét (Muhammed Admed) biệt hiệu là Mátdi (tức Cứu thế) chỉ huy. Matdi là nhà truyền đạo trẻ rất quen biết ở Xuđan. Ông kêu gọi nhân dân Xuđan đứng dậy, tổ chức cuộc “kháng chiến thần thánh” chống bọn ngoại xâm, đòi bỏ các thứ thuế và tuyên bố quyền bình đẳng của mọi người. Mátdi trở thành kẻ “cứu thể”, người lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Xuđan chống đế quốc Anh. Số người tham gia kháng chiến ngày càng đồng, tuy trang bị thiếu thốn, nhưng rất kiên quyết tiêu diệt kẻ thù. Cuộc khởi nghĩa lan nhanh khắp Xuđan vào cuối năm 1882 đầu năm 1883. Điều đặc biệt nguy hiểm cho sự thống trị của Anh là nghĩa quân đã tràn đến các miền ở bờ biển Hồng Hải – gần con đường tiếp nối chính giữa nước Anh và thuộc địa Anh. Nghĩa quân hạ Kháctum – thủ đô Đông Xuđan vào tháng 1 năm 1885 và giết chết tên tướng Anh đóng giữ ở đây. Quân Anh bị đuổi hết khỏi Đông Xuđan.
Cuộc nổi dậy của nhân dân Đông Xuđan chống thực dân Anh và chống phong kiến Ai Cập mang tính chất một phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Sau chiến thắng này, miền Đông Xuđan có những biến đổi lớn về xã hội. Chế độ bộ lạc cũ bị tiêu diệt. Các cơ quan cũ bị lật đổ và thay vào đó là dòng quý tộc lên cầm quyền. Qua cuộc chiến đấu, các dân tộc đã đoàn kết lại và dần dần hình thành một tổ chức quốc gia. Sau khi Mátdi chết (6 – 1885), Apdulabi (Abdullabi) cầm đầu chính phủ và nắm tất cả các quyền bính trong tay.
Mười năm sau khi thất bại ở Kháctum, quân Anh không dám tấn công vào Đông Xuđan. Nhưng trong thời gian đó, tình hình chính trị ở Đông Phi đã thay đổi. Bọn đế quốc tiếp tục xâm chiếm, tung gián điệp và bành trướng thuộc địa vào các vùng gần Đông Xuđan. Do đó, chính phủ Anh quyết định có biện pháp cứng rắn đối với Đông Xuđan dùng quân viễn chính tấn công xâm lược, tiêu diệt nhân dân Đông Xuđan. Quân viễn chinh Anh có đến 10.000 tên được trang bị đẩy đủ. Nghĩa quân Đông Xudan có 50.000, nhưng chỉ 1/3 trong số đó là có súng Năm 1896, Anh đánh chiếm miền Đông Xuđan ở phía nam Ai Cập. Cuộc tiến công của quân Anh về phía thượng lưu sông Nin chậm chạp và kéo dài mấy năm liên. Nghĩa quân và nhân dân Đông Xuđan chiến đấu anh dũng và quyết liệt, song không tránh khỏi thất bại. Mãi đến năm 1898, quân Anh mới chiếm được Kháctum sau một cuộc thảm sát đẫm máu. Tháng 1 năm 1899, Anh hoàn thành việc chinh phục Đông Xuđan.
4. Phong trào đấu tranh giải phóng ở Êtiôpi
Trước đây Êtiôpi chia thành nhiều công quốc nhỏ. Giữa thế kỉ XIX, Êtiopi bắt đầu hình thành một quốc gia tập quyển. Bên cạnh những thay đổi về mặt kinh tế, những yếu tố chính trị cũng được thay đổi. Do sự đe dọa của một cuộc tấn công của các lực lượng thực dân châu Âu, Êtiopi phải tập trung lực lượng để đấu tranh bảo vệ nền độc lập. Vào năm 1856, các miền Tigrd, Soa và Ambara thống nhất với nhau dưới quyền của Teodorốt II. Teo đôrốt II lên ngôi lấy tên là Negút (tức Vua của các vị Vua). Từ năm 1856 đến 1868, Nêgút thực hiện cải cách và làm yếu bọn phong kiến cát cứ, tập trung quyền vào tay minh. Ông đã tổ chức. được một quân đội thống nhất. Hệ thống thuế mà được thay đổi, thu nhập được quy định và cấm việc buôn bán nô lệ.
Vào những năm 80, Ý đã chú ý đến Êtiôpi. Năm 1870 Ý chiếm vịnh Atxáp, một số vùng ở Hồng Hải và dùng những nơi đó để xâm nhập vào Étiôpi. Năm 1886 – 1887,Ý tìm cách xâm nhập nhiều lần vào Êtiôpi, nhưng đều thất bại. Đầu năm 1889, khi mà giữa các thế lực phong kiến lớn ở Étiôpi tranh chấp ngôi vua thì Ý lợi dụng tình thể đó ủng hộ Manelich II (Manelik) thủ lĩnh vùng Soa lên ngôi. Giữa Manelích II và Ý đã kí hiệp ước Uxiali (Uecialli) vào ngày 2 – 5 – 1889, rồi dẫn dẫn, biến Êtiopi thành đất bảo hộ của Ý.
Năm 1890, Ý tuyên bố công khai lập nên bảo hộ ở Êtiopi và chiếm đóng Etiôpi. Vua Tigơrơ, Menelích phản đối kịch liệt và phủ nhận quyền bảo hộ của Ý ở Étiopi. Menelich chuẩn bị lực lượng để đấu tranh chống lại. Một đội quân gồm 11 vạn 2 ngàn người được tổ chức. Menelích đã thống nhất được các tỉnh để chiến đấu, đó là điều mà từ trước đến bấy giờ lịch sử Étiôpi chưa hề làm được.
Năm 1895, Ý mở cuộc tấn công, nhưng ngày 1 – 3 – 1896 Ý bị thua thảm hại trong trận Adua, bị chết 3.000 quân, lại thêm 3.000 thương binh bị chết vì thiếu thuốc men và chăm sóc, hơn 3.000 quân bị bắt làm tù binh. Tất cả khí giới của quân Ý đều bị tịch thu. Có 4 viên tướng chỉ huy thì 2 tử trận, 1 bị thương và 1 bị bắt. Đây là cuộc thua trận lớn nhất trên đường chinh phục của bọn thực dân Ý.
Tháng 10 năm 1896, Ý buộc phải kí Hiệp ước hòa bình ở Atđi Abeba (Addis Abeba), công nhận nền độc lập của Êtiôpi, hủy bỏ hiệp ước Uxiali và bồi thường chiến phí. Cuộc kháng chiến của Êtiôpi giành được thắng lợi, nói lên sức mạnh đoàn kết của nhân dân Êtiớpi và có ý nghĩa lịch sử lớn lao đối với phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân châu Phi.
Châu Phi vào thời kì cận đại đã bị các nước đế quốc châu Âu, chủ yếu là đế quốc Anh, Pháp và Đức xâu xé phân chia. Cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, hầu như toàn bộ châu Phi đã bị thôn tính và trở thành thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Nhân dân châu Phi đã anh dũng đứng lên chống ngoại xâm để gìn giữ nên độc lập của đất nước.