Phong trào giải phóng dân tộc và phong trào mặt trận nhân dân chống Phát Xít trong những năm 1929 – 1939

Những năm 1929 – 1939 là thời kì khủng hoảng kinh tế sâu sắc và toàn diện của thế giới tư bản. Khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và chuẩn bị gây chiến tranh thế giới. 

Vào giữa những năm 30, ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân yêu nước nhằm chống bọn phản động thuộc địa, chống nguy cơ phát xít và chiến tranh xâm lược.

1. Ở châu Á, nhân dân Trung Quốc đã tiến hành cuộc đấu tranh chống nền thống trị phản động của chính quyền Tưởng Giới Thạch và cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật xâm lược, bảo vệ đất nước.

Ở Ấn Độ, phong trào đấu tranh chống thực dân Anh tiếp tục phát triển rộng khắp trong những năm 1929 – 1932. Sự thành lập Đảng Cộng sản Ấn Độ vào tháng 11-1939 đã đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ. 

Trên bán đảo Triều Tiên, nhân dân tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng… tiến hành cuộc đấu tranh chống Nhật. 

Ở Đông Nam Á đầu những năm 30, một số Đảng Cộng sản được thành lập, mở ra một thời kì mới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Riêng ở Việt Nam, cuộc khởi nghĩa Yên Bái tháng 2-1930 (do Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức) bị thất bại đã chấm dứt vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp tư sản dân tộc, đồng thời cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1930 – 1931, mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ-Tĩnh, đã mở ra thời kì cách mạng Việt Nam đi theo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và chính Đảng mác xít – lêninnit của nó – Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở Philippin, cuộc khởi nghĩa nông dân chống ách bóc lột của địa chủ phong kiến gắn liền với cuộc đấu tranh chống đế quốc bùng nổ năm 1931 và đã buộc Mì phải trao trả quyền tự trị cho nước này. Ở Miến Điện, phong trào khởi nghĩa nông dẫn được diễn ra từ cuối năm 1930 đến mùa xuân năm 1932. Đầu năm 1933, ở Indonéxia đã bùng nổ cuộc khởi nghĩa của thủy binh trên tàu chiến Đơ Gioven Pơrôvinxien.

2. Ở châu Phi, phong trào cách mạng lên cao ở Ai Cập trong những năm khủng hoảng kinh tế. Tháng 10-1930, thực dân Anh để ra hiến pháp nhằm tập trung toàn bộ quyền hành vào tay nhà vua thân Anh Tháng 5-1931, cuộc bầu cử diễn ra trong tỉnh hình quần chúng bất bình sâu sắc. Trong cả nước đã bùng nổ cuộc bãi công chính trị, đặc biệt mạnh mẽ ở Cairô và Poóc Xait, quần chủng đã xung đột vũ trang với bọn cảnh sát và quân đội.

Ở Étiopi, cuộc đấu tranh anh dùng và chính nghĩa của nhân dân chống phát xít Italia xâm lược có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành phong trào chống đế quốc trên toàn lục địa Phi. 

Trong các nước châu Phi nhiệt đới ở phía nam sa mạc Xahara, vào cuối những năm 20 đến những năm 30 của thế kỉ XX đã diễn ra sự tập hợp dẫn dẫn các lực lượng yêu nước và cách mạng trong cuộc đấu tranh giành được độc lập dân tộc, giành quyền sống. Mầm mống của giai cấp công nhân được phát sinh và phát triển trong nhiều nước. Quá trình hình thành giai cấp tư sản dân tộc cũng bắt đầu trong một số nước. 

Liên bang Nam Phi, một thuộc địa di dân của đế quốc Anh, nước phát triển nhất về mặt kinh tế, đã có ảnh hưởng hai mặt đối với tình hình chính của châu Phi nhiệt đới. Bọn thống trị ở đây là người da trắng đã thi hành chế độ phân biệt chủng tộc dã man, tàn bạo nhất. Phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Nam Phi đã có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào cách mạng châu Phi.

3. Ở Mi latinh, trong những năm 1929 – 1933, khủng hoảng kinh tế đã giáng một đòn nặng nề vào các nước trong khu vực này. Hàng hóa xuất khẩu truyền thống của các nước Mĩ latinh xuống giả nghiêm trọng Nạn thất nghiệp, đói khổ lan rộng trong quần chúng nhân dân. Trong nhiều nước, cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ và yêu nước được đẩy mạnh.

Ở Peru, chính phủ thân Mĩ của tên độc tài Lêghi bị lật đổ năm 1930, chính phủ Xanset Xerô được các độc quyển Anh ủng hộ đã lên thay. Dưới danh nghĩa tiến hành cuộc đấu tranh chống “chủ nghĩa đế quốc bên ngoài”, Xerô tiến hành cuộc đàn áp các lực lượng tiến bộ trong nước. Năm 1932, Xerô gây chiến tranh với Côlômbia và được Mĩ ủng hộ. Cuộc chiến tranh kéo dài gần 2 năm đã gây tổn hại cho cả 2 nước. 

Mùa hạ năm 1931, các cuộc đấu tranh của quần chúng ở Chilê đã lật đổ chính phủ độc tài thân Mĩ của Ibaniét. Phong trào quần chúng tiếp diễn đòi thiết lập chế độ cai trị theo hiến pháp, chống lại ảnh hưởng của các độc quyền Mĩ ở trong nước, đòi giải quyết nạn thất nghiệp và khắc phục tình trạng sinh hoạt đất đỏ. Đầu tháng 9-1931, binh sĩ trong hạm đội Chilê khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, nhiều cuộc bãi công của công nhân đã bùng nổ ở những thành phố hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Cuối cùng, cuộc khởi nghĩa bị thất bại vì quân đội phản động tập trung sức mạnh đàn áp. Tháng 6-1932, chính phủ mới đứng đầu là Garôve được thành lập. Chilê tuyên bố là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, chứng tỏ mong muốn của đông đảo nhân dẫn Chilê về một xã hội công bằng. Nhưng các lực lượng phản động trong nước và bọn đế quốc bên ngoài đã lật đổ chính phủ Gørôvơ. Mùa thu năm 1932, lãnh tụ Đảng Tự do là Acturô Alêchxanđri lên làm tổng thống. Chính sách phản nhân dân của chính phủ Aléchxanđri đã gây nên làn sóng phản đối không chỉ trong quần chúng lao động, mà cả trong tầng lớp tiểu tư sản và tư sản hạng trung. 

Ở Cuba, năm 1933 cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài thân Mỹ – Machađỏ phát triển mạnh mẽ. Đế quốc Mĩ đưa Xétpêđét, nguyên đại sứ Cuba ở Mĩ, lên thay. Phong trào đấu tranh vẫn tiếp diễn, bao gồm các tầng lớp nhân dẫn đông đảo, kể cả giai cấp tư sản dân tộc. Binh lính yêu nước cùng vùng dậy đấu tranh. Đầu tháng 9-1933, đã diễn ra một cuộc đảo chính tiến bộ ở Cuba. Xétpêđét bị lật đổ, chính phủ mới do giáo sư Gơrây Xan Mactin đứng đầu được thành lập. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Cuba, một chính phủ của giai cấp tư sản dân tộc lên cầm quyền và đã thi hành một số biện pháp dân chủ, như chế độ ngày làm 8 giờ, nâng cao tiền lương công nhân, hạn chế hoạt động của một số công ti độc quyền Mĩ… Đầu năm 1934, lực lượng thân Mĩ – Batixta gây áp lực buộc chính phủ Xan Mactin từ chức và chiếm đoạt mọi quyền hành ở Cuba. Tuy nhiên cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Cuba vẫn tiếp diễn trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai. 

Trong những nam 1936 – 1939, ở nhiều nước Mi latinh, Mặt trận nhân dân đã được thành lập, tập hợp đồng đảo lực lượng nhân dân trong nước: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức tiến bộ và một bộ phận giai cấp tư sản dân tộc. 

Ở Mêhicô, những năm 1934 – 1939 chính phủ của giai cấp tư sản dân tộc, đứng đầu là Laxarô Cácđênát – lãnh tụ cánh tả của giai cấp tư sản dân tộc, được sự giúp đỡ của Đảng Cách mạng Mêhicô (đảng của giai cấp tư sản dân tộc) đã thi hành một số biện pháp tiến bộ có lợi cho nhân dân, hạn chế ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc. Năm 1935, phong trào quần chúng nhân dân rộng lớn mà lực lượng cơ bản là công nhân đã đập tan âm mưu đảo chính của lực lượng phản động trong nước. Năm 1936, Tổng liên đoàn lao động Mêhicô ra đời, tập hợp hầu hết các công đoàn trong nước để lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Trước cao trào đấu tranh của quần chúng công nông, chính phủ Cácđênát đã tuyên bố thi hành “luật cải cách ruộng đất”. Ngày 23-6-1937, luật quốc hữu hóa các đường sắt chủ yếu được thực hiện, đưa 700 km đường sắt vào tay Nhà nước. Tháng 3-1938, Cácđềnát tuyên bố quốc hữu hóa 17 công ti dầu lửa nước ngoài. Các nước tư bản Anh – Mi tìm cách phá hoại, bao vây kinh tế Mêhicô. Trước áp lực đó, chính phủ Cácđênát ngày càng thiên hữu và cuối cùng đã bị đổ. Tuy vậy, phong trào đấu tranh của quần chúng vẫn tiếp tục phát triển. Tháng 9-1938, theo sáng kiến của các công đoàn Mehicô, Tổng liền đoàn Mĩ latinh được thành lập ở Mehico (bao gồm tổ chức công nhân trong nhiều nước Mi latinh) đòi độc lập dân tộc, thủ tiêu tàn tích phong kiến, xây dựng một chế độ xã hội dựa trên “sự tôn trọng độc lập kinh tế và chính trị của mỗi nước và tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới”. 

Ở Chilê, Mặt trận nhân dân ra đời năm 1936 trong cao trào đấu tranh chống chính phủ Alêchxandri. Mặt trận bao gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, những người cấp tiến và những người dân chủ, với yêu sách chủ yếu là tự do, dân chủ, độc lập dân tộc thực sự, cải thiện đời sống nhân dân lao động. Tháng 12-1938, chính phủ Mặt trận nhân dân do Pédơrô Cácđa, lãnh tụ Đảng Cấp tiến, làm tổng thống đã được thành lập. Chilê là nước đầu tiền ở Tây bán cầu có chính phủ của Mặt trận nhân dân. Chính phủ Cácđa đã thực hiện một số biện pháp tiến bộ trong nước và giữ cho Chile khỏi rơi vào tay lực lượng phát xít. 

Ở Achentina, cuộc đấu tranh thành lập Mặt trận nhân dân diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn: giới cầm quyền có những liên hệ chặt chẽ với nước Đức phát xít, các tổ chức phát xít hoạt động mạnh, Đảng Cộng sản bị đạt ra ngoài vòng pháp luật… Mặc dù vậy, quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đòi dân chủ và cải thiện đời sống. Tháng 3-1936, Tổng liên đoàn lao động đã thống nhất với Liên đoàn các thủy thủ và Liên hiệp các nhân viên điện thoại. Mặt trận nhân dẫn ra đời trên cơ sở lực lượng của giai cấp công nhân được tập hợp lại. Trong cuộc bầu cử Quốc hội, Mặt trận nhân dân đã giành được ít nhiều thắng lợi. 

Cuộc đấu tranh xây dựng Mạt trận nhân dân ở Braxin đã diễn ra dưới những hình thức đấu tranh quyết liệt chống chế độ độc tài Vácgất. Nam 1934, Vácgát ban hành đạo luật an ninh nhằm thủ tiêu những dấu vết cuối cùng của nền dân chủ. Bọn phát xít Braxin đã tăng cường hoạt động khủng bố nhân dân. 

Trong những năm 1934 – 1935, giai cấp công nhân Braxin đã đi hàng đấu trong cuộc đấu tranh chống phát xít và 1,5 triệu công nhân đã tham gia các cuộc bãi công. Phong trào đấu tranh tự phát của nông dân cùng phát triển. Sự bất mãn lan rộng trong cả tầng lớp tiểu tư sản thành thị. Tháng 3-1935, theo sáng kiến của Đảng Cộng sản, Đồng minh giải phóng dân tộc được thành lập dưới sự lãnh đạo của Cáclốt Luit Pơrettéc, bao gồm công nhân, nông dân, quân nhân, nhiều nhóm tư sản dân tộc. Đồng minh tập hợp được hơn 1,5 triệu người và trở thành bức tường ngăn chặn chủ nghĩa phát xít. Ngày 5-7-1935, khẩu hiệu “Tất cả chính quyền vé tay Đóng minh” được nêu ra. Chính phủ Vácgat ra lệnh nghiêm cấm hoạt động của Đồng minh, nhưng phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục dâng cao và chuyển sang đấu tranh vũ trang. Chính quyền dân tộc cách mạng được thiết lập ở Natalia, rồi ở bang Riu Gørandidu Noócđi. Ngày 27-II, cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Rio đề Gianêrô. Tháng 11-1937, trước ngày bầu cử tổng thống. Vácgat đã làm cuộc đảo chính, giải tán Quốc hội, đặt các chính đảng ra ngoài vòng pháp luật, tuyên bố Braxin là “Nhà nước nghiệp đoàn”. 

Nhìn chung, phong trào giải phóng dân tộc trong những năm 1929-1939 đã có những bước tiến so với mấy năm trước, với sự tham gia của đông đảo quần chúng công nông và các tầng lớp trung gian ở thành thị. Sự tang cường vai trò của giai cấp công nhân là một đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc trong thời kì này. Các Đảng Cộng sản trẻ tuổi phương Đông đã chiến đấu như những chiến sĩ kiên cường vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vào giữa những năm 30 đã diễn ra phong trào đấu tranh của các lực lượng yêu nước trong Mặt trận thống nhất chống đế quốc thực dân phản động, chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình và dân chủ