Giai đoạn thứ hai (22-6-1941 đến 19-11-1942): Phe Phát xít tấn công Liên Xô, mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn thế giới

1. Đức tấn công Liên Xô 

Ngày 22-6-1941, vào 3 giờ 30 sáng, không tuyên chiến và cũng không đưa ra một yêu sách gì, phát xít Đức bất ngờ mở cuộc tấn công trên khắp biên giới phía Tây của Liên Xô từ Biển Đen đến biển Ban Tích, chà đạp thô bạo lên hiệp ước không xâm phạm Xô-Đức kí kết năm 1939. 

Cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô là bộ phận quan trọng nhất trong kế hoạch chinh phục toàn cầu của đế quốc Đức, đã được Hitle và giai cấp tư sản Đức chuẩn bị kỉ lưỡng từ lâu. Sau khi thôn tỉnh xong 11 nước châu Âu với diện tích gần 2 triệu km2, dân số 142 triệu người, phát xít Đức đã chiếm được những vị trí có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng về ki tế, quân sự và lực lượng trở nên rất hùng mạnh. Đánh chiếm hầu như toàn bộ châu Âu tư bản chủ nghĩa (trừ Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha và Anh), phát xít Đức không vấp phải trở ngại hoặc tổn thất gì đáng kể, cho nên binh lính Đức rất kiêu căng ngạo mạn, tự cho mình là “đạo quân bách chiến, bách thắng”. Chính trong bối cảnh thuận lợi này, phát xít Đức đã tiến đánh Liên Xô với mục tiêu nhằm độc chiếm kho tài nguyên vô tận của Liên Xô và tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa, kẻ thù số 1 của chủ nghĩa phát xít. 

Theo “kế hoạch Bacbarôxa”), được thảo ra từ tháng 6-1940, Hitle đã huy động 190 sư đoàn 2) với 5,5 triệu quân 3712 xe tăng, 47.260 khẩu pháo, 1.950 máy bay… chia ra làm 3 đạo quân, đặt dưới quyền tổng chỉ huy của thống chế Phôn Boraosit (Von Brauchitsch), tiến đánh theo 3 hướng chiến lược: 

– Đạo phía bắc do thống chế Phồn Lép (Von Leeb) chỉ huy, gồm 2 tập đoàn bộ binh, 1 tập đoàn xe tang và 1 không đội, tiến từ Đông Phổ qua vùng Ban Tích hướng tới Leningrát. 

– Đạo trung tâm do thống chế Phôn Bốc (Von Bock) chỉ huy, gồm 2 tập đoàn quân bộ binh, 2 tập đoàn xe tăng và 1 không đội, từ Đông Bắc Vacxava hướng tới Minxeơ, Xmôlenxed và Matxeva. 

– Đạo phía nam do Chuẩn thống chế Phôn Runxtét (Von Rundsted) chỉ huy gồm 3 tập đoàn quân bộ binh, 1 tập đoàn xe tăng và 1 không đội, từ vùng Liubolin hướng tới Gitomia, Kiếp, sau đó tới Đônbát.

Chiến lược của Đức dựa trên yếu tố bất ngờ, tiến hành chọc thủng phòng tuyến Liên Xô ở nhiều chỗ bằng những mũi nhọn thọc sâu xe tăng, chặn đứng sự rút lui của Hồng quân về phía Đông rồi tiến tới tiêu diệt Hồng quân bằng những trận hợp vây đồng thời ở nhiều điểm. Dự kiến của “kế hoạch Bacbarôxa” sẽ “đánh bại nước Nga bằng một cuộc chiến tranh chớp nhoáng trước khi kết thúc chiến tranh với Anh” (chỉ thị số 21 của Hitle). Hitle dự tính sẽ “đánh quy nước Nga trong vòng từ 1 tháng rưỡi đến 2 tháng. 

Đi đôi với kế hoạch xâm lược về quân sự là kế hoạch cướp bóc tài nguyên và tàn sát người Nga một cách man rợ. Chỉ thị ngày 12-5-1941 của Bộ chỉ huy tối cao Đức bát sĩ quan, binh lính Đức phải tuân theo: 

“Hãy nhớ và thực hiện: 

– Không có thần kinh, trái tim và sự thương xót – anh được chế tạo từ sắt, thép Đức… 

– Hãy tiêu diệt trong mình mọi sự thương xót và đau khổ, hãy giết bất kì người Nga nào và không được dừng lại, dù trước mặt anh là ông già hay phụ nữ, con gái hay con trai. 

– Chúng ta phải bắt thế giới đấu hàng….. anh là người Đức, và là người Đức phải tiêu diệt mọi sự sống cản trở con đường của anh”(1) 

2. Cuộc chiến đấu quyết liệt để bảo vệ Matxcơva và Xtalingrat 

Trước lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước: “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa làm nguy”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, nhân dân Liên Xô chà nhất tẻ đứng dậy, già trẻ, trai gái, triệu người như một, xông thẳng tới quân thù xâm lược. Trong những điều kiện rất khó khăn, bất lợi do yếu tố bất ngờ và so sánh lực lượng quá chênh lệch gây nên, quân và dân Liên Xô đã phải trải qua những cuộc chiến đấu mở đầu hết sức gay go, quyết liệt với những hi sinh và tổn thất nặng nề 

Trước tiên là những trận chiến đấu để bảo vệ biên giới của Tổ quốc, lúc này Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô không còn cách nào khác, ngoài việc thực hiện phòng ngự về chiến lược, nhằm nhưng mục đích: 

– “Kim chân quân phát xít thật lâu trên các tuyến phòng ngự để tranh thủ thời gian nhiều nhất đưa các lực lượng từ phía sau tới và thành lập các lực lượng dự bị mới, điều động và triển khai các lực lượng đó trên các hướng quan trọng nhất.

– Gây cho địch những thiệt hại lớn nhất, làm cho chúng mỏi mệt và hao hụt và do đó phần nào làm cân bằng so sánh lực lượng. 

– Đảm bảo thực hiện các biện pháp của Đảng và chính phủ trong việc di chuyển nhân dân và các mục tiêu công nghiệp vào phía sâu trong nước, tranh thủ thời gian để chuyển sản xuất công nghiệp sang phục vụ nhu cầu chiến tranh. 

– Tích lũy tối đa các lực lượng và chuyển sang phản công để đập tan toàn bộ kế hoạch chiến tranh của bọn Hitle”(1), 

Những trận chiến đấu bảo vệ biên giới đã diễn ra hết sức dũng cảm, oanh liệt. Quân và dân Xô viết đã giữ từng tấc đất từng ngôi nhà trong những điều kiện hết sức chênh lệch về quân số và vũ khí 

Mặc dù phải thực hiện những cuộc rút lui để bảo toàn lực lượng, thậm chí phải mở những “đường máu” vượt qua những vòng vây của quân địch với tổn thất khá nặng nề, nhưng Hồng tản đã kìm chân được bước tiến của kẻ thù, làm cho chúng không thực hiện được ý đồ sẽ kết thúc cuộc chiến đấu ở biên giới trong vòng nửa giờ đồng hồ” như kế hoạch đã định. Nhờ đó, Hồng quân có thời gian và điều kiện để tổ chức lực lượng, củng cố tuyến phòng ngự theo chiều sâu. 

Đến giữa tháng 7, mặt trận biên giới coi như kết thúc, và quân đội phát xít Đức ngày càng tiến sâu vào nội địa Liên Xô. Đến tháng 9-1941, đạo quân phía bắc của Phôn Lép đã tiến sát tới Lêningrát, bao vây thành phố này; ở mặt trận trung tâm, quân của Phân Bốc tiến đến Xmôlenxcơ; ở phía nam, quân Đức chiếm Kiếp, tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Chiến tuyến càng mở rộng ra, quân đội Đức càng gặp nhiều khó khăn và càng bị tổn thất nặng nề hơn trước. Riêng trong 2 tháng đầu của cuộc chiến tranh ở Liên Xô, lục quân Đức đã mất gần 40 vạn người (trong khi đó, suốt từ tháng 6 đến tháng 12-1941, trên tất cả các mặt trận khác, chúng chỉ tổn thất có 9000 tên). Đến lúc này, cái giá mà bọn phát xít đã phải trả không chỉ là sự thiệt hại nặng nề về người và vũ khí, mà quan trọng hơn là sự phá sản của chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” và sự sụp đổ bước đầu của danh hiệu “đạo quân bách chiến, bách thắng” đã được nẩy sinh đầu tiên ngay từ tướng lĩnh cao cấp và binh sĩ Đức. 

Tháng 10-1941, Bộ chỉ huy Đức tập trung mọi sức lực để mở cuộc tấn công vào hưởng Mátxcơva với hi vọng chiếm được thủ đô Matxcơva sẽ CÓ ảnh hưởng quyết định đối với kết cục của chiến tranh. Với mật danh là “bão táp”, kế hoạch đánh chiếm Viadoma – Matxcơva và Brianxcơ – Matxcơva rồi sau đó đánh vu hỏi từ phía bắc và phía nam để trong một thời gian ngắn có thể chiếm được Mátxcơva. Để đạt mục đích chiến lược đó, Hitle đã huy động 80 sư đoàn, trong đó có 23 sư đoàn xe tăng và cơ giới (khoảng hơn 1 triệu quân) và gần 1000 máy bay vào trận đánh Mátxcơva, với ưu thế hơn hẳn quân đội Liên Xô (bộ binh hơn 1,25 lần, xe tăng-2,2 lần, đại bắc và súng cối-2,1 lần, máy bay-1,7 lần)(2) – Hitle chắc tin ở thắng lợi mĩ mãn. Trong nhất lệnh ngày 2-10-1941, ngày mở đầu cuộc tấn công Matxcơva, Hitle tuyên bố phải tiêu diệt kẻ thù “trước khi mùa đông tới” và điền cương quyết định ngày 7-11-1941 sẽ “chiếm xong Mátxcơva và duyệt binh chiến thắng tại Hồng trường”. Trong hội nghị các tướng linh, Hitle tuyên bố sẽ biển Mátxcơva “thành một cái hố lớn bao phủ vĩnh viễn thủ đô của dân tộc Nga”. Hitle còn ra lệnh cho Bộ chỉ huy đạo quân Trung tâm “phải bao vây thành phố thế nào để không một người lính Nga nào, không một người dân nào, dù là đàn ông, đàn bà hay trẻ con có thể bỏ chạy”(2) và “phải hủy diệt nhân dân và thành phố Mátxcơva’. Ngoài ra, Hitle thậm chí còn thành lập một đội đặc biệt để phá hủy điện Cremli. 

Trong tháng 10 và 11, quân đội phát xít ào ạt mở 2 đợt tấn công đại quy mô vào Mátxcơva. Nhờ ưu thế về lực lượng và vũ khí quân Đức đã chiếm được Öriôn, bao vây Tula, và có nơi đã tiến vào sát cạnh Mátxcơva 20 kilômét. Một nguy cơ hiểm nghèo đang đè nặng trái tim mọi người dân Xô viết và toàn nhân loại tiến bộ. Nhưng, trong những giờ phút nguy kịch đó, Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn bình tĩnh giữ vững tay lái. Trung ương Đảng kêu gọi toàn dân Liên Xô hãy hoàn thành nhiệm vụ vinh quang trước Tổ quốc: Không cho quân thù tới Matxexva! Hội đồng quốc phòng nhà nước do Xtalin đứng đầu ở lại Mátxcơva, trực tiếp lãnh đạo việc bảo vệ thủ đô. Tướng G.K.Giucốp được chỉ định làm Tổng chỉ huy bảo vệ Matxcơva. Đáp lời kêu gọi của Đảng, nhân dân Mátxcơva đã biến thủ đô và các vùng ven thành một pháo đài bất khả xâm phạm. Hàng chục vạn người Mátxcơva ngày đêm làm việc để xây dựng những phòng tuyến bao quanh thành phố. Theo sáng kiến của nhân dân, thủ đô đã thành lập 12 sư đoàn dân quân với nhiều tổ xung kích đánh xạ tăng. 

Sáng 7-11, kỉ niệm lần thứ 24 ngày Cách mạng tháng Mười, tại Hồng trường đã diễn ra một cuộc duyệt binh đặc biệt. Những đơn vị duyệt binh, với vũ khí và đạn được sẵn sàng, diễu qua Hồng trường rồi tiến thẳng ra mặt trận, mặc dù quân thù đang ở ngay sát chân thành Matxcova.

Trong đợt tấn công ác liệt và đẫm máu tháng 10, quân phát xít Đức tiến được từ 230 đến 250 kilômét, nhưng lực lượng của chúng bị tổn thất nghiêm trọng, kế hoạch thôn tính Mátxcơva trong giữa tháng 10 bị đổ vỡ, và đến cuối tháng 10, cuộc tấn công đã bị chặn đứng lại. Sau khi chấn chỉnh, bổ sung lại lực lượng, ngày 15-11, bộ chỉ huy quân Đức lại mở đợt tấn công thứ hai vào Mátxcơva, nhưng tất cả các mũi đột phá của địch đều lần lượt bị bẻ gẫy. Đến đầu tháng 12, cuộc tấn công của quân Đức buộc phải ngừng lại vì lúc này lực lượng của chúng đã bị tổn thất quả nặng nề (nhiều đại đội chỉ còn 20 đến 30 tên), tinh thần binh lính sa sút hẳn, ngay nhiều tên tướng Đức cũng không còn tin sẽ chiếm được Matxcơva nữa. 

Ngày 6–12, Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công ở Matxcơva và sau hai tháng chiến đấu, đã đẩy lùi quân đội phát xít Đức ra xa Mátxcơva có nơi đến 400 kilômét. Kế hoạch đánh chiếm Matxcơva của Hitle đã sụp đồ tan tành. Trong cuộc chiến đấu ở Matxcơva, phát xít Đức đã bị thiệt hại tổng cộng hơn nửa triệu quân, 1300 xe tăng, 2500 đại bác, trên 15.000 ôtô và nhiều phương tiện kĩ thuật khác. 

Với chiến thắng Mátxcơva, lần đầu tiên sau 6 tháng chiến tranh, Hồng quân đã làm cho các đơn vị chủ lực của phát xít Đức phải chịu những tổn thất nặng nề nhất. Tướng Đức Vétphan thú nhận: “Quân đội Đức, trước đây được coi là không thể bị đánh bại, nay sắp bị tiêu diệt”. Thất bại ở Matxcơva còn làm cho nội bộ hàng ngũ quân phát xít hoang mang, tan rã, các tướng lĩnh cao cấp đổ lỗi cho nhau. Hitle cách chức Tổng tư lệnh lục quân Phồn Boraosít, cách chức Phỏn Bốc-tư lệnh đạo quân trung tâm, tướng Guderian – Tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2 và hàng chục tướng lĩnh khác. Chiến thắng Mátxcơva đã củng cố lòng tin của nhân dân Liên Xỏ và nhân dân thế giới vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống phát xít. 

Cũng trong những thời điểm khó khăn nhất này của đất nước (từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 11-1941), nhân dân Liên Xô đã tiến hành một cuộc di chuyển khổng lồ chưa từng có trong lịch sử: 1500 xí nghiệp lớn (chủ yếu là những xí nghiệp quốc phòng) và 10 triệu dân gồm cụ già, phụ nữ và trẻ em đã được di chuyển về phía Đông. Việc di chuyển, khôi phục và phát triển ngành sản xuất công nghiệp trong những năm chiến tranh, về quy mô cũng như ý nghĩa của nó đối với vận mệnh của Tổ quốc Xô viết, “cũng trong đại ngang với các chiến dịch vĩ đại nhất của cuộc chiến tranh vệ quốc” (Xtalin). 

Mùa hè năm 1942, lợi dụng lúc chưa có Mặt trận thứ hai ở châu Âu, Hitle một lần nữa lại dốc toàn lực lượng tung vào mặt trận Xô – Đức. Nhận thấy khó có thể đánh chiếm Mátxcơva bằng một cuộc tấn công trực diện, Bộ chỉ huy Đức quyết định chuyển trọng tâm tiến công xuống phía nam, cụ thể là khu vực sông Vonga và Cápcado, nhằm đánh chiếm vùng dầu lửa và vựa lúa mì lớn nhất của Liên Xô, rồi sau đó sẽ đánh chiếm Matxcơva từ phía sau. 

Tháng 7-1942, Hitle mở cuộc tấn công lớn nhằm chiếm bằng được Xtalingrat (nay là Vongagrat). 

Nhờ tập trung ưu thế hơn hẳn về lực lượng, đến giữa tháng 8-1942 quân phát xít Đức đã tiến đến khu vực lân cận thành phố Xtalingrát. Ngày 21-8, quân đội Liên Xô buộc phải chuyển từ tuyến phòng ngự bên ngoài Xtalingrat vào tuyến bên trong. Từ 13-9, cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra ngay trong thành phố. Xtalingrát lúc này trở thành cái “nút sống” của Liên Xô và quyết tâm của Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô là phải giữ cho được Xtalingrát bằng bất cứ giá nào. Với khẩu hiệu “không lùi một bước”, các chiến sĩ Xu viết bảo vệ Xtalingrát đã chiến đấu bền bỉ tới giọt máu cuối cùng để giữ vững từng vị trí, từng tấc đất của thành phố. Mỗi ngày đêm, quân đội Liên Xô phải đánh lui khoảng từ 12-15 đợt tấn công ác liệt của kẻ thù. Nhưng cuối cùng. Xtalingrát không những vẫn hiên ngang đứng vững mà còn giáng trả liên tục, làm cho quân thù bị tổn thất nặng nề. Từ tháng 7 đến hết tháng 11, trong các trận chiến đấu ở sông Đông, sông Vonga và ở Xtalingrát, quân phát xít Đức bị thiệt hại hơn 60 vạn người, hơn 1.000 xe tăng, hơn 2000 pháo cối, và gần 1400 máy bay. Tới lúc này, do bị tổn thất quá nặng nề, quân đội Đức không còn lực lượng dự bị để triển khai các cuộc tiến công nữa và đã làm vào một tình thế hết sức nguy khốn. 

3. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Mi, Nhật tham chiến 

Lợi dụng khi phát xít Đức tấn công Liên Xô và các nước tư bản châu Âu bị bại trận, Nhật Bản quyết định “Nam tiến”, đánh vào khu vực ảnh hưởng của các nước Mĩ, Anh, Pháp… Ngày 7-12-1941, vào 7 giờ 55 phút giờ địa phương, các máy bay trên tàu sân bay Nhật cắt cánh oanh tạc dữ dội các tấu chiến và sân bay Mĩ ở cảng Trân Châu. Tham gia trận tập kích này còn có 12 tầu ngầm Nhật. Cuộc tập kích bất ngờ và dữ dội của hạm đội Nhật đã gây cho hạm đội Mĩ những tổn thất nặng nề chưa từng có trong lịch sử hải quân Mỹ: trong số 8 tấu chủ lực, 5 chiếc bị đánh chìm tại chỗ, số còn lại bị trọng thương hạm đội Mĩ còn bị thiệt hại 19 tấu chiến khác và 177 máy bay, hơn 3000 binh lính và sĩ quan Mỹ bị thiệt mạng.

Thiệt hại của Nhật rất nhỏ: 29 máy bay, 1 tầu ngầm và 5 tàu ngầm nhỏ(1), Tổng thống Mĩ Rudoven và các nhà lãnh đạo quân đội Mĩ coi cuộc tập kích càng Trân Châu là một sự kiện nhục nhã nhất trong lịch sử quân đội Mỹ. 

Ngay đầu tiên của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương cũng là ngày bất hạnh đối với hạm đội Anh. Ngày 8-12, hạm đội Anh, gồm 2 tấu bọc sắt và 4 tàu ngư lôi, rời cảng Xingapo để lên đường tấn công các tẩu vận tải của Nhật. Sáng ngày 10-12, máy bay Nhật đã tấn công và đánh chìm cả 2 tàu bọc sắt của Anh. Hạm đội Mĩ và hạm đội Anh đã bị đánh bại, từ đây hạm đội Nhật làm chủ Thái Bình Dương. 

Ngày 8-12-1941, Mĩ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 11-12, Mi tuyên chiến với Đức và Italia. Cùng ngày, Đức, Italia tuyên chiến với Mi. 

Từ cuối năm 1941 đến tháng 5-1942 là giai đoạn thứ nhất của cuộc chiến tranh châu Á – Thái Bình Dương. Nhật Bản đã thắng lớn trong giai đoạn này. Anh-Mĩ bị đánh bật ra khỏi Thái Bình Dương, mất hết các thuộc địa ở Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương. 

Ngày 7-12-1941, quân Nhật từ Đồng Dương 2) kéo vào Thái Lan. Sau khi đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Mã Lai, quân Nhật từ phía bắc đánh tập hậu Xingapo. Mười vạn quân Anh ở Xingapo không hề chống cự và thảo chạy. Ngày 15-2-1942, Xingapo thất thủ. 

Ngày 31-12-1941, quân Nhật bắt đầu tấn công Inđônêxia, thuộc địa của Hà Lan. Đến đầu tháng 3-1942, các đảo chủ yếu của Inđônêxia thuộc Hà Lan (Xumatra, Giava v.v…) đã rơi vào tay quân Nhật. Chiếm được Inđônêxia, quân Nhật đã mở được cánh cửa đi vào Ấn Độ Dương. 

Hầu như đồng thời với cuộc đổ bộ lên Bắc Mã Lai, quân Nhật cũng đã tiến hành cuộc tấn công đánh chiếm quần đảo Philippin. Ngày 10-12-1941, quản Nhật đổ bộ lên phía bắc đảo Luyxông. Cho tới khoảng đấu tháng 5-1942, quân Nhật chiếm được toàn bộ lãnh thổ Philippin. 

Trong thời gian hơn 5 tháng sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, quân Nhật đã cùng có được trận địa của chúng ở Đông Dương và Thái Lan, chiếm Ma Lai và Xingapo, chiếm những đảo của Inđônêxia, một phản Tân Ghinê, chiếm Miến Điện, Philippin, Hồng Công, các quần đảo thuộc Nam Thái Bình Dương (Guam, Wake, Târ Britanya, Salômông), từ Miến Điện tiến lên tỉnh Vân Nam (Trung Quốc Nhật Bản đã chiếm được một vùng lãnh thổ rộng 3.800.000 km2 với 150 triệu dẫn (nếu tính cả phần đất Trung Quốc mà chúng đã chiếm được trước kia, thì đến mùa hè 1942 quân Nhật đã chiếm được một vùng lãnh thổ rộng 7 triệu km với số dân khoảng 500 triệu). 

Sau khi đánh chiến được một vùng rộng lớn ở châu Á – Thái Bình Dương, những nhược điểm về quản sự của Nhật Bản cũng bắt đầu bộc lộ. Những hạn chế về số quân, tiếp tế, hậu cần làm cho quân Nhật gặp rất nhiều khó khăn trong các vùng mới chiếm đóng Trong khi đó, lực lượng tinh nhuệ chủ yếu của quân đội Nhật lại phải ăn ngữ dọc biên giới Liên Xô – Trung Quốc để chuẩn bị cuộc chiến tranh chống Liên Xô trong tương lai, mặc dầu Nhật Bản đã kị với Liên Xô hiệp ước trung lập (ngày 13–4–1941) với thời hạn 5 năm, nhưng bọn quân phiệt Nhật chỉ chờ dịp để tấn công xâm lược Liên Xô. Vì vậy, trên chiến trường châu Á – Thái Bình Dương. mùa hè năm 1942 các mũi tấn công của quân Nhật đã chững lại. 

Tháng 5-1942, tại vùng biển San hô (Corail) giữa Ôxtrâylia và quân đảo Salômông, đã diễn ra trận đánh lớn giữa hải quân Mĩ và hải quân Nhật. Thiệt hại của hai bên là tương đương. Những hạm đội Nhật đã bị đánh bại. Tiếp đó, tại vùng biển quần đảo Mituây (Midway), đầu tháng 6-1942, quân Nhật lại bị một thất bại mới trong cuộc đụng độ với hải quân Mĩ, Anh. Thiệt hại của Nhật trong trận này là mất 4 tấu sân bay, 1 tàu tuần tiểu và 1 số lớn máy bay. Trận Mituây chứng tỏ ưu thế thuộc về phía Mĩ – Anh. Tuy vậy, trong suốt 2 năm 1942 và 1943, phía Mi-Anh vẫn không tiến hành cuộc phản công thực sự để đánh bại lực lượng Nhật Bản trên Thái Bình Dương. Các trận đánh chỉ diễn ra một cách rất hạn chế trên vùng biển và đất liền tại các quần đảo Salômông và Tân Ghinê. Ý đồ của các chính phủ Mĩ, Anh là né tránh chiến tranh lớn với Nhật Bản và chờ đợi một cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản với Liên Xô. 

4. Chiến sự ở Bắc Phi 

Từ tháng 11-1940 đến tháng 9-1941, một trận giao chiến đã diễn ra ở Bắc Phi giữa quân Anh và quân của tướng Rommen. Lúc đầu Đức chủ trọng đến mặt trận Libi vì Đức muốn chiếm kênh Xuyê và cắt đứt những đường giao thông chính của Anh với các thuộc địa. Quân Đức đuổi quân Anh đến biên giới Ai Cập. Quân Anh bị thua liên tiếp. 

Nhưng tình hình đã thay đổi sau thất bại của quân Đức trước Mátxcơva. Bấy giờ, mặt trận Xô – Đức thu hút tất cả lực lượng của Đức và buộc Đức ít chú ý đến các mặt trận khác. Mặt trận Libi trở nên thứ yếu. 

Lúc này, đế quốc Mĩ lại coi việc chiếm Bắc Phi là mục tiêu quan trọng trước mắt (bởi Mĩ muốn chiếm những nguồn dầu hỏa ở Cận Đông và hất cảng Anh, Pháp ở đây). Do vậy, F Rudoven dự định đổ bộ lên Bắc Phi.

Trước ý đồ của Mĩ, Chính phủ Anh vội vàng quyết định mở cuộc tiến công ở Bắc Phi để giành lại các vị trí của mình trước khi quân Mĩ kéo đến. Tình hình càng thêm thuận lợi, bởi vì cuộc chiến đấu ác liệt ở mặt trận Xô – Đức đã cầm chân tất cả lực lượng của Đức ở đây. Đức còn buộc phải điều một phần quân ở Bắc Phi sang mặt trận Liên Xô. Mùa thu 1942, quân đoàn thứ 8 của Anh ở Bắc Phi gồm 7 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn thiết giáp và 7 lữ đoàn chiến xa đã mở cuộc tiến công. Quan Đức có 4 sư đoàn khá yếu và 11 sư đoàn Italia. 

Ngày 23-10, quân Anh tấn công bất ngờ ở vùng En Alamen (El Alamoin) Quân Đức và Italia phải rút lui nhanh chóng Trong 14 ngày, quân Anh tiến được 850 cây số. 

5. Mặt trận Đồng minh chống phát xít ra đời 

Sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, hầu hết các nước trên thế giới đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến, vận mệnh của tất cả các dân tộc sẽ do cuộc chiến tranh này định đoạt. Việc thành lập một liên minh quốc tế đã trở thành nguyện vọng và đòi hỏi bức thiết của tất cả các lực lượng tiến bộ, dân chủ và hòa bình trên thế giới. 

Ngày 15-8, Tổng thống Mĩ và Thủ tướng Anh đã gửi một bức thông điệp chung cho Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô, trong đó đề nghị tổ chức tại Mátxcơva một hội nghị để bàn về việc cung cấp cho nhau những nguyên liệu và vật tư chiến tranh. Chính phủ Liên Xô đã chấp nhận để nghị đó. Hội nghị đã được tiến hành ở Mátxcơva từ ngày 29-9 đến ngày 1-10-1941. Văn kiện hội nghị được kí kết ngày 1-10-1941 quy định sự giúp đỡ lẫn nhau về kinh tế trong những năm sắp tới giữa Liên Xô và Anh, Mĩ. 

Cuối năm 1941, sự cần thiết hình thành chính thức một mặt trận đồng minh chống phát xít trên phạm vi thế giới càng trở nên bức thiết và những điều kiện để thành lập mặt trận đó đã đầy đủ. Thắng lợi của Hồng quân Liên Xô trong trận Mátxcơva đã nâng cao vị trí của Liên Xô trên trường quốc tế và nhân dân thế giới đòi hỏi phải liên minh với Liên Xô. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, nước Mĩ đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến, vì không cần một dân tộc nào có thể đứng ngoài cuộc chiến tranh, trận tuyến chống phát xít trên thế giới đã rõ ràng. Ngày 1-1-1942, tại Oasinhtơn đã kí kết bán “Tuyên bố Liên Hợp Quốc” của 26 nước, trong đó có Liên Xô, Mĩ và Anh. Bản Tuyên bố quy định: 

– “Các chính phủ cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế của đất nước vào cuộc chiến tranh chống bọn phát xít và tay sai của chúng.

– Mỗi chính phủ cam kết hợp tác với các chính phủ tham gia bản tuyên bố chung, không được kí hiệp định đình chiến hay hòa ước riêng với các nước thù địch. 

– Bất cứ nước nào có đóng góp vào cuộc đấu tranh chiến thắng chủ nghĩa phát xít đều có thể tham gia bản tuyên bố trên”. 

Bản tuyên bố chung của 26 nước ngày 1-1-1942 đã đánh dấu sự hình thành Mặt trận Đồng minh chống phát xít trên phạm vi toàn thế giới. 

Để củng cố Mật trận Đồng minh chống phát xít, tang cường quan hệ hợp tác giữa ba nước Liên Xô và Anh, Mĩ, tháng 5-1942, chính phủ Liên Xô đã cử ngoại trưởng Môlôtốp sang Luân Đôn và Oasinhtơn để đàm phán với các nhà lãnh đạo hai nước Anh, Mì. Ngày 26-5-1942, tại Luân Đôn đã kí kết một hiệp ước giữa Anh và Liên Xô về việc liên minh chống nước Đức Hitle cùng bọn tay sai ở châu Âu, và việc tương trợ lẫn nhau sau chiến tranh. Ngày 11-7-1942, tại Oasinhtơn đã kí kết Hiệp ước Liên Xô – Mĩ về những nguyên tắc tương trợ trong quá trình chiến tranh chống xâm lược. 

Như vậy, nhờ cố gắng của Liên Xô, Mặt trận Đồng minh chống phát xít toàn thế giới, mà nòng cốt là liên minh Liên Xô – Mỹ – Anh, cuối cùng đã được thành lập. Sự tồn tại của Mặt trận Đồng minh đã có một ý nghĩa tích cực, to lớn trong việc đoàn kết và hợp đồng chiến đấu giữa các lực lượng chống phát xít trên toàn thế giới để chiến thắng kẻ thù.