Sự khủng hoảng và suy sụp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu (Từ nửa sau những năm 70 đến 1990)

1. Khái quát 

Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973 đã tác động mạnh tới nên kinh tế các nước Đông Âu. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu suy giảm từ nửa sau những năm 70. Bước sang những năm 80, các nước Đông Âu đều để ra những chiến lược phát triển kinh tế – xã hội dựa trên sự tiến bộ về khoa học – kĩ thuật, chuyển mạnh sang con đường phát triển kinh tế theo chiều sâu. Tuy nhiên, kết quả đưa lại không đạt như mong muốn. Trong hai năm đầu, nhịp độ phát triển kinh tế giảm sút ở nhiều nước. Từ năm 1983, nền kinh tế Đông Âu có chiều hướng tốt lên. Trong 5 năm (1981 – 1985), nhịp độ tăng thu nhập quốc dân của các nước này là 3,3%. Nhưng tình hình lại tiếp tục xấu đi ở những năm cuối. Năm 1988 – 1989, nhịp độ tăng tổng sản phẩm quốc dân của các nước này là 2.6%. Năm cuối của thập niên – 1989, nền kinh tế Đông Âu chìm sâu trong khủng hoảng thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,5%. Ở một số nước như Ba Lan, Hunggari thì giản nặng nề. 

Sản xuất công nghiệp suy giảm, đặc biệt trong các ngành sản xuất điện, luyện kim, chế tạo cơ khí. Sản xuất nông nghiệp cũng phát triển chậm, một phần do thời tiết không thuận lợi. Trong 3 năm 1986 – 1989, khối lượng nông phẩm của khối SEV chí tăng có 1,6%, riêng năm 1989 là 1%. Quan hệ kinh tế đối ngoại tuy có mở rộng nhưng không thu được kết quả mong muốn. Việc buôn bán giữa các nước thành viên trong khối SEV cố xu hướng giảm, nợ phương Tây tăng lên (128,6 tỉ đôla năm 1987). Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. 

Nhân dân các nước giảm sút lòng tin, nổi bất bình tăng lên với sự sa sút mọi mặt trong cuộc sống. Từ cuối những năm 70, ở nhiều nước đã xảy ra các cuộc bãi công, đình công của công nhân (Rumani, Ba Lan). 

Mặc dầu đã có những cố gắng để điều chỉnh sự phát triển kinh tế – xã hội, nhưng do những sai lầm chống chất lâu ngày, cộng với những khó khăn bế tắc của công cuộc cải tổ ở Liên Xô dội vào và hoạt động phá hoại của các thế lực phản động cuộc khủng hoảng trong các nước XHCN Đông Âu tiếp tục gay gắt. Trước tình hình đó Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước các nước Đông Âu đều lần lượt tuyên bố từ bỏ quyền lãnh đạo của Đảng, chấp nhận chế độ đa nguyên, đa đảng và tiến hành tổng tuyển cử tự do. 

Kết quả, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi trong các cuộc bầu cử và lên nắm chính quyền nhà nước. Vào cuối những năm 1989-1990, chế độ XHCN đã bị sụp đổ hầu hết ở các nước Đông Âu. 

Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, ngoài những nguyên nhân chung ra, còn có những nguyên nhân riêng biệt: 

– Thứ nhất, các nước Đông Âu đã trải qua nhiều nam dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, do đó xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn toàn mô phỏng theo mô hình của Liên Xô, đã làm nảy sinh nhiều điều không phù hợp với điều kiện lịch sử và tình hình thực tế của các nước Đông Âu. Việc xây dựng nên một cơ chế quan liêu, bao cấp về kinh tế, một nén chính trị chưa dân chủ, chưa công bằng và vi phạm những pháp chế xã hội chủ nghĩa, không tuân thủ những quy luật khách quan về kinh tế – xã hội đã khiến cho nhân dân các nước Đông Âu không hài lòng, không ủng hộ chế độ mới xã hội chủ nghĩa (đã diễn ra nhiều lần khủng hoảng xã hội ở nhiều nước). 

– Thứ hai, chậm sửa chữa, thay đổi trước những biến động lớn của tỉnh hình thế giới (như ở Đức và Rumani, cho đến tận trước ngày sụp đổ, những người lãnh đạo vẫn tuyên bố rằng họ không có sai lầm cho nên không cần phải sửa chữa, cải cách gì cả; hoặc như ở Anbani, cho đến lúc sụp đổ, vẫn giữ nguyên những cơ chế cũ và kinh tế – xã hội của 30 năm trước đó). Một số nước khác tuy tiến hành sửa chữa, thay đổi nhưng lại rời bỏ những nguyên lí đúng đắn của chủ nghĩa Mac-Lenin. 

Thứ ba, một bộ phận trong giới lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở các nước Đông Âu đã bị tha hoá về phần chất chính trị (xa rời chủ nghĩa cộng sản để đi theo chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa xã hội dân chủ và biến chất về phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng (như vợ chồng Xéauxẻxcu thực hiện chế độ gia đình trị” ở Rumani). 

Thứ tư, hoạt động chống phá của thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước. Vì đã trải qua nhiều năm dưới chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên lực lượng chống chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu còn rất mạnh (công chức, sĩ quan, binh lính của chế độ cũ, các giai cấp bóc lột tư sản, địa chủ, các lực lượng nhà thờ Thiên Chúa giáo, Đảng XHDC…) cùng cấu kết với nhau, có sự hỗ trợ mạnh mẽ của nước ngoài, nhằm chống phá lại chế độ xã hội chủ nghĩa (cuộc tấn công hoà bình mà họ thường gọi là “cuộc cách mạng nhung”). 

Thứ năm, trong cơn nguy kịch của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, chính sách “không can thiệp” của chính phủ Liên Xô, do Goochachop cầm đầu, đã tạo điều kiện thuận lợi thêm để các thế lực phản cách mạng tiếp tục phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa, 

2. Quá trình khủng hoảng, tan rã và sụp đổ của các nước Đông Âu KHCN 

– BA LAN 

Là nước chịu nhiều ảnh hưởng của nhà thờ Thiên Chúa giáo hơn bất kì nước Đông Âu nào và cũng là nước trải qua khủng hoảng sớm nhất. 

Sau cuộc bãi công tháng 12-1970, ở Godangxeơ (Đangdich), Girếch giữ chức Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan. Ông bắt đầu để ra chính sách “đổi mới” và “mở rộng”, chủ trương mở rộng quan hệ với phương Tây. Trong 10 năm cầm quyền, Girếch đã hai lần sang Pháp và hai lần đón Tổng thống Pháp. Các Tổng thống Mĩ – Nichxơn, Pho, Cato đều đến Ba Lan. Girếch tăng cường nhập khẩu mà kết quả là mác nợ tới 115 tỉ phơrăng vào năm 1980. 

Tình trạng giá cả tăng vọt từ tháng 7-1980 đã dẫn tới sự bắt đầu của cuộc khủng hoảng ở Ba Lan. Ngày 6-9-1980, Girếch từ chức Bí thư thứ nhất. 

Tháng 9-1976, “Uỷ ban bảo vệ công nhân” theo chủ nghĩa dân tộc, chống Liên Xô và thân phương Tây được thành lập. Phe đối lập gồm nhiều “uỷ ban bãi công” đã tìm cách liên hệ được với nhau. Các công đoàn tự do được thành lập, đối lập với công đoàn nhà nước. Lệch Valensa – một người thợ máy đóng tàu ở Godangxcơ đã nắm quyền lãnh đạo phong trào và cùng với các cộng sự thành lập Công đoàn Đoàn kết. Tổ chức này đã thu hút không chỉ công nhân mà cả trí thức, nông dân và công chức cùng tham gia. Công đoàn Đoàn kết cũng giành được vị trí ở đài phát thanh và truyền hình. 

Song song với Công đoàn Đoàn kết, ở Ba Lan còn hai lực lượng nữa là nhà thờ và Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan. Quan hệ giữa nhà thờ và chính phủ được cải thiện dưới thời Girếch. Việc Hồng y giáo chủ Karen Wojtyla được bầu làm Giáo hoàng Jean Paul II (7-1978) càng tăng thế lực của nhà thờ. Tháng 4-1977, Paul II đến thăm Vacxava và được đón tiếp nồng hậu. 

Trái lại, Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan bị suy yếu, nhiều đảng viên tham gia Công đoàn Đoàn kết. Đại hội IX của Đảng họp tháng 7-1981 đã đổi mới tới 60% cán bộ; 308.000 người xin ra khỏi Đảng hoặc bị khai trừ, chỉ có 26.000 người mới gia nhập năm 1981. Hơn nữa Đảng buộc phải dân chủ hoá các điều lệ của mình. 

Ngày 13-2-1981, Jarudenxki (Jaruzelski), Bộ trưởng Quốc phòng được cử làm Thủ tướng. Ông đề nghị họp hội nghị chính trị với Công đoàn Đoàn kết và ngày 10-3-1983 ông đã gặp Lech Valensa. 

Năm 1981 là một năm sôi động ở Ba Lan: các cuộc bãi công, biểu tình liên tiếp diễn ra, thêm vào đó là sự thiếu thốn, vật giá lên cao, sự hỗn loạn, cuộc đối thoại giữa Công đoàn Đoàn kết và chính phủ, đỉnh cao là Đại hội toàn quốc Công đoàn Đoàn kết (diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9-1981). Valensa được bầu làm Chủ tịch với 58,2% phiếu thuận. 

Ngày 18-10-1982, Iarudenxki được cử làm Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan thay Kania, kiêm Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang. Công đoàn Đoàn kết thách thức chính quyền và chế độ cộng sản. Chính quyền bắt đầu tấn công vào Công đoàn Đoàn kết. 

Trong đêm 12 rạng ngày 13-12-1981 đã xảy ra sự kiện quan trọng: larudenski thành lập “Hội đồng quân sự cứu quốc”. Hội đồng nhà nước tuyên bố “tình trạng chiến tranh”. Mọi cuộc tập trung đông người bị cấn, trừ các buổi hành lễ. Mọi sự đi lại quá cảnh bị đình chỉ, biên giới đóng cửa. Nhiều người bị bắt, kể cả Valensa, Girếch và những người lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết, “Uỷ ban bảo vệ công nhân”. Ở Thủ đô Vacxava, xe tăng án ngữ các vị trí quan trọng. Trật tự được lập lại.

Từ đó, Ba Lan được đặt dưới sự kiểm soát của quân đội và công an – lực lượng trung thành với chính phủ, lệnh giới nghiêm được bãi bỏ 2 năm sau đó (1983). Chính quyền chấp nhận chuyến viếng thăm Ba Lan của Giáo hoàng Jean Paul II (từ 16 đến 23-6-1983) và Valensa được phép yết kiến Giáo hoàng. Tình trạng chiến tranh được xóa bỏ hoàn toàn từ ngày 23-7-1983. Cuộc cải tổ ở Liên Xô từ 1985 đã tác động mạnh tới Ba Lan. 

Tháng 6-1989, ở Ba Lan đã diễn ra cuộc bầu cử Hạ nghị viện và Thượng nghị viện tự do. Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan bị giảm số phiếu bầu, Trong vòng đấu, 62% cử tri đã đi bầu. Gần như toàn bộ ứng cử viên của Công đoàn Đoàn kết đều trúng cử. 

Sau khi được bầu làm Tổng thống, larudenski đã cử Mađôvetski làm Thủ tướng. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1948, một nước Đông Âu do một người không phải cộng sản lãnh đạo chính phủ (thuộc phải Công đoàn Đoàn kết). Ba Lan vẫn tuyên bố là thành viên của tổ chức Vacxava và các Bộ trưởng nội vụ quốc phòng, ngoại giao vẫn nằm trong tay Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan. 

Cuối tháng 1-1990, Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan chấm dứt hoạt động, trên cơ sở đó Đảng Xã hội dân chủ ra đời. Quốc hội Ba Lan tuyên bố đổi tên nước thành Cộng hoà Ba Lan (từ 1990). 

– RUMANI 

Là nước không có quân đội Liên Xô đóng quân, bị cắt đất sau Chiến tranh thế giới thứ hai (vùng Bétxarabia và Bucôvina). Từ năm 1965, Nicôlai Xéauxêxcu lãnh đạo Đảng và Nhà nước. 

Rumani là một trong những nước có khủng hoảng nổ ra sớm nhất. Nam 1979, đã diễn ra cuộc bãi công của 25 nghìn thợ mỏ ở thành phố Jui đòi cải thiện đời sống. Năm 1987, công nhân thành phố Braxốp tiến hành bài công lớn. Đến tháng 2 – 1989, sáu người lãnh đạo cũ gửi kháng thư cho Tổng bí thư Đảng Cộng sản Rumani – Xéauxexcu. Mọi sự phản kháng đều bị đàn áp.

Tiếp đó, ngày 16-12-1989 nhân dân thành phố Timixoara xuống đường biểu tình phản đối nhà cầm quyền bắt giam một mục sư đạo Tin lành, người đã đấu tranh bảo vệ quyền lợi của dân tộc thiểu số người Rumani gốc Hunggari. Đoàn biểu tình bị đàn áp dữ dội, nhiều người chết và bị thương. Từ Timixoara, làn sóng đấu tranh lan nhanh sang các thành phố khác và cả thủ đô Bucarét. Các sự kiện sau đó diễn ra dồn dập. Ngày 22-12, “Mặt trận cứu nước Rumani” do những người nổi dậy thành lập, tuyên bố lật đổ “chế độ độc tài gia đình trị” của Xéauxêxcu và thiết lập một nước Rumani mới “dân chủ, tự do và phẩm giá”. 

Ngày 25-12-1989, vợ chồng Xeauxexcu bị xử tử và toàn bộ hệ thống Đảng, chính quyền của chế độ cũ bị sụp đổ. Ngày 26-12-1989, Chính phủ lâm thời được thành lập do Iliexcu làm Chủ tịch nước và Rôman làm Thủ tướng. Ngày 29-12-1989, Hội đồng Mặt trận cứu nước công bố quyết định Rumani theo thể chế cộng hoà. 

– CỘNG HOÀ DÂN CHỦ ĐỨC 

Từ tháng 10-1989, hàng ngàn người ở CHDC Đức rời bỏ đất nước ra đi bất hợp pháp, sang Cộng hoà liên bang Đức hàng mọi cách. Nhiều cuộc biểu tình diễn ra ở Béclin, Laixích, Drexđen cùng với sự ra đời của một số tổ chức chính trị không chính thức như Diễn đàn mới”, “Phong trào phục hồi dân chủ”… Những người biểu tình đưa ra khẩu hiệu đòi cải cách chính trị và xã hội, đòi chính phủ công nhận các nhóm đối lập, đòi chính phủ từ chức. Ngày 18-10-1989, Honechcơ từ chức lãnh đạo Đảng và bị gạt khỏi chức Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, thay bằng Crenxơ. 

Ngày 7-11-1989, Hội đồng bộ trưởng từ chức. Ngày hôm sau 8-11, toàn thể Bộ chính trị uỷ ban trung ương Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức xin từ chức. Ngày 9-11-1989, nhà cầm quyền tuyên bố bỏ ngỏ bức tưởng Béclin. Việc thống nhất nước Đức đã đến gần. Các cuộc biểu tình rầm rộ vẫn tiếp tục được diễn ra. 

Tháng 3-1990, do sức ép của các lực lượng đối lập trong và ngoài nước, cuộc bầu cử Quốc hội diễn ra trước thời hạn. Kết quả là Đảng Xã hội thống nhất Đức (đã đổi tên thành Đảng của chủ nghĩa xã hội dân chủ) bị mất quyền lãnh đạo, trở thành phe đối lập thiểu số trong Quốc hội. 

Ngày 5-4-1990, trong kì họp Quốc hội, ông Lôtha Dônredierợ – lãnh tụ Đảng Liên minh dân chủ Thiên Chúa giáo được bầu làm Thủ tướng. Bà Sadin Bécnapolo (Đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo) làm Chủ tịch Quốc hội. 

Ngày 18-5-1990, những người cầm quyền của Cộng hoà liên bang Đức và Cộng hoà dân chủ Đức đã kí hiệp ước để đi tới một liên minh tiền tệ. kinh tế và xã hội. Theo hiệp ước, kể từ ngày 1-7-1990 đồng Mác của Cộng hoà liên bang Đức trở thành đóng tiền lưu hành sử dụng thống nhất trong cả nước Đức, thực hiện một bước thống nhất tiền tệ và kinh tế. 

Tới mùa thu năm 1990, 15 tỉnh trước đây của Cộng hoà dân chủ Đức đã đổi lại thành 5 bang như cơ cấu hành chính của Cộng hoà liên bang Đức nhằm tiến tới thống nhất lãnh thổ về mặt pháp lí. Trong phiên họp đặc biệt ngày 23-8-1990, Quốc hội Cộng hoà dân chủ Đức đã quyết định gia nhập Cộng hoà liên bang Đức. 

Đúng 0 giờ ngày 3-10-1990, tại nhà Quốc hội Cộng hoà dân chủ Đức đã diễn ra lễ hạ cờ Cộng hoà dân chủ Đức và kéo cờ Cộng hoà liên bang Đức, tượng trưng cho sự thống nhất nước Đức đã hoàn thành. Như vậy, chỉ trong vòng một năm, kể từ tháng 10-1989, Cộng hoà dân chủ Đức từ một nước có chủ quyền đã sáp nhập vào Cộng hoà liên bang Đức, kết thúc 41 năm tồn tại. Quá trình sụp đổ của Cộng hoà dân chủ Đức và sự thống nhất nước Đức được diễn ra nhanh chóng. 

– HUNGGARI 

Từ cuối năm 1988, nhiều câu lạc bộ, Hiệp hội tư nhân và tổ chức chính trị đối lập như Mật trận xã hội, lợi ích, dân chủ tự do được thành lập. Hunggari mở cửa biên giới (với Áo) cho phép các công dân tự do đi ra nước ngoài. 

Từ đây các sự kiện diễn ra dồn dập. Ngày 7-10-1989, Đại hội Đảng Công nhân XHCN Hunggari đã quyết định tự giải tán và thành lập “Đảng Xã hội Hunggari” “không cộng sản”. Những đảng viên còn lại vẫn tiếp tục giữ tên đăng cũ và trở thành Đảng đối lập (do Tluymơ Dolo làm Chủ tịch). 

Ngày 18-10-1989, kỉ niệm 33 năm “sự kiện 1956, một cuộc biểu tình rất lớn tổ chức tại quảng trường Cộng hoà. Chính phủ đã tuyên bố chấm dứt thể chế chính trị “cộng hoà XHCN” và tuyên bố thành lập “nước Cộng hoà Hunggari”. 

Như vậy, Hunggari là nước đầu tiên ở Đông Âu đã xoá bỏ thể chế XHCN. Nó đã trải qua cuộc “cách mạng cung đình” mà không phải đối đầu với áp lực của quần chủng hoặc “hòm phiếu”. 

– TIỆP KHẮC

Ngày 17-11-1989, từ một cuộc biểu tình của sinh viên để tưởng niệm những nạn nhân bị bọn quốc xã sát hại 50 năm trước đó, biến thành cuộc đấu tranh chống chính phủ hiện hành, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Những vụ đụng độ đã diễn ra giữa cảnh sát và đoàn người biểu tình. Các cuộc biểu tình tiếp tục diễn ra với yêu sách đòi lật đổ chế độ dẫn tới thành lập “diễn đàn nhân dân” (“nhóm 77” và nhà văn Haven đóng vai trò chủ chốt). Sau 10 ngày biểu tình, bãi công, đến 12 giờ trưa ngày 27-11-1989, cuộc tổng đình công chính trị đã diễn ra với sự tham gia của hàng triệu người, đánh dấu sự thay đổi của tỉnh hình sau “10 ngày rung chuyển nước cộng hoà. Ngày 8-12-1989, Tổng thống Huxác đã chỉ định chính quyền mới của Mian Calla. 

Tiếp đó, Quốc hội Tiệp Khắc tuyên bố xoá bỏ điều 4 của Hiến pháp, xác định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đối với đất nước và điều 6 của Hiến pháp về vai trò chỉ đạo của Đảng Cộng sản trong Mặt trận. 

Tháng 12-1989, Huxắc từ chức Tổng thống. Cuộc tổng tuyển cử tự do cuối năm 1989 đã bầu Haven làm Tổng thống và Đúpxếch (lãnh tụ trong cuộc nổi dậy “mùa xuân 1968”) làm Chủ tịch Quốc hội. 

Tháng 1-1990, Tiệp Khắc đổi tên nước thành Cộng hoà Tiệp Khắc và đến tháng 4-1990 là Cộng hoà liên bang Séc và Xlôvakia. 

– BUNGARI, ANBANI, NAM TƯ 

– Cuộc khủng hoảng ở Bungari diễn ra tương đối chậm nhưng với cường độ mạnh. Ngày 10-11-1989, cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài đã dẫn tới sự từ chức của Tổđo Gipcốp (năm chính quyền từ năm 1954). P. Madunrop thay thế đã tuyên bố xoá bỏ điều 1 trong Hiến pháp quy định vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 

Ngày 3-4-1990, Dảng Cộng sản đổi tên thành Đảng Xã hội chủ nghĩa Bungari. Trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 5-1990, phải đối lập giành đa số phiếu bầu và D. Gielép lên làm Tổng thống từ tháng 8-1990. 

– Cuộc khủng hoảng ở Anbani nổ ra cũng tương đối muộn. Năm 1991, trong khi hầu hết các Đảng Cộng sản và công nhân Đông Âu đã lùi bước trước lực lượng chống CNXH thì ở Anbani những người cộng sản vẫn giữ các vị trí chủ yếu trong chính phủ, tuy có cải cách một bước hệ thống chính trị. 

Đầu năm 1991, ở Anbani đã tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội mới, cuộc bầu cử đầu tiên có nhiều đảng và tổ chức chính trị tham gia. Ngày 15-4-1991, Quốc hội mới (khoá 18) chính thức hoạt động. Trong kì họp đầu tiên, Quốc hội tiến hành bầu tổng thống và thông qua dự thảo hiến pháp mới. Dự thảo hiến pháp mới quy định tổng thống là người đứng đầu nhà nước Anbani, đổi tên nước Cộng hoà XHCN Anbani thành Cộng hoà Anbani theo quy chế dân chủ lập hiến. Quốc hội đã bầu R. Alia, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Anbani làm Tổng thống. Sau đó R. Alia đã xin rút khỏi các chức vụ trong đảng cho phù hợp với hiến pháp mới. R. Alia đã cử T. Nanô làm Thủ tướng Chính phủ lâm thời (người của Đảng Lao động). 

Ngày 3-6-1991, chính phủ và các phe đối lập trong Quốc hội đã đạt được thoả thuận về thành lập một chính phủ lâm thời gồm đại diện tất cả các lực lượng chính trị. Chính phủ F. Nanô từ chức (3-6) và Chính phủ liên hiệp lâm thời thành lập (11-6-1991). 

Ngày 12-6-1991, Đại hội lần thứ 10 của Đảng Lao động Anbani đã đổi tên đảng thành Đảng Xã hội chủ nghĩa Anbani; tuyên bố từ bỏ hình thức của chủ nghĩa xã hội trước đây vì nó không thích hợp. 

Tình hình Anbani tiếp tục xấu đi. Ngày 3-12-1991, Đảng Dân chủ, đảng đối lập lớn nhất trong Quốc hội đã quyết định rút các bộ trưởng của họ trong Chính phủ liên hiệp của Y. Buphi. Ngày 5-12, Y.Buphi đã đệ đơn lên Tổng thống Alia xin từ chức do việc các bộ trưởng của Đảng Dân chủ tự do ra đi. Trong khi đó ở Tirana, 15000 người đã biểu tình phản đối chính phủ vì không có khả năng cải thiện đời sống cho nhân dân. Ngày 11-2-1991, Tổng thống đã bổ nhiệm nhà trí thức không đảng phái – V. Amêti làm Thủ tướng. 

Cuộc bầu cử Quốc hội Anbani diễn ra ngày 22-3-1992 đã dẫn tới thắng lợi của Đảng Dân chủ đảng đối lập trong giai đoạn trước. Đảng XHCN (Đảng Lao động) trở thành thiểu số đối lập trong Quốc hội. Với sự lên cầm quyền của Đảng Dân chủ, đánh dấu sự thay đổi chính trị ở Anbani. 

– Ở Nam Tư, sau khi Titô chết, quyền lãnh đạo đất nước thuộc về Đoàn Chủ tịch quản lí tập thể, gồm 8 đại biểu của 8 nước cộng hoà và tự trị. Cuộc khủng hoảng kinh tế đã diễn ra khá sớm và sự bất đồng quan điểm trong ban lãnh đạo (sự đối lập giữa quan niệm của Xlôvênia và của Xécbi), đặc biệt từ khi X. Milôxêvích lên nắm chính quyền ở Xécbi, thường xuyên diễn ra. 

Trước những xung đột ấy, chính quyền Liên bang Nam Tư đã không đủ uy tín để dàn xếp và bất chấp mọi cố gắng của Thủ tướng Anđơ Máccôvich (3-1989 đến tháng Chạp năm 1991), việc làm lành mạnh nền kinh tế không có hiệu quả, lạm phát lên cao (năm 1989 là 125%, năm 1990 là 700%). 

Về chính trị, năm 1989 chính quyền Xécbi tuyên bố xoá bỏ quyền tự trị của người Anbani ở Vöivedin và Côxôvô, gây nên tình trạng bất ổn định ở vùng này. Chính sách đàn áp công khai các dân tộc thiểu số và yêu sách về một nước Đại Xéchi đã dẫn tới sự li khai hai nước Cộng hoà trong Liên bang Crôatia và Xlôvenia (25-6-1991). Nền độc lập của họ được CHLB Đức và Cộng đồng châu Âu công nhận. 

Tiếp đó các nước cộng hoà còn lại trong liên bang bắt đầu tuyên bố li khai khỏi Liên bang Nam Tư. Bước ngoặt trong quá trình tan rã của Liên bang Nam Tư là sự tuyên bố độc lập của Bôxnia – Hécxêgôvina (15-10-1991).