Hoạt động kinh tế của các thành thị
1. Thủ công nghiệp và tổ chức phường hội
Trong hầu hết các thành thị ở châu Âu, ngành kinh tế quan trọng nhất là thủ công nghiệp. Cũng như nông dân, thợ thủ công thời bấy giờ là những người sản xuất nhỏ độc lập. Họ làm việc ngay tại nhà mình bằng công cụ lao động và nguyên liệu của mình. Tuy vậy, để đảm bảo cho việc sản xuất được thuận lợi hơn, những người thợ thủ công ở thành thị đã tổ chức thành những đoàn thể nghề nghiệp gọi là phường hội hoặc hàng hội.
Tổ chức phường hội hầu như ra đời đồng thời với sự xuất hiện của thành thị. Ở Italia, phường hội được thành lập từ thế kỉ X, còn các nước khác như Pháp, Anh, Đức, Tiệp Khắc thì đến thế kỉ XI, XII mới có phường hội.
Mục đích chủ yếu của việc thành lập phường hội là nhằm :
– Bảo đảm sự đồng đều về quyền lợi trong việc sản xuất cũng như trong khâu mua nguyên liệu và bán sản phẩm, tránh sự cạnh tranh lẫn nhau giữa những thợ thủ công cùng nghề.
– Bảo vệ sự độc quyền về nghề nghiệp của mình chống sự cạnh tranh của những nông nô không ngừng chạy vào thành thị và cũng làm nghề đó.
– Đoàn kết với nhau nhằm chống lại sự hạch sách và cướp bóc của lãnh chúa phong kiến.
Phường hội là tổ chức của những người thợ thủ công cùng ngành nghề trong một thành phố. Tuy vậy, có nơi do sự phát triển của việc phân công lao động, một nghề lớn lại chia thành nhiều nghề khác nhau thì mỗi nghề mới này lại lập thành một phường hội riêng. Ví dụ : nghề gia công kim loại có các phường hội như phường thợ rèn dao kéo, phường thợ làm vũ khí, phường thợ đúc nổi ; hoặc như ngành dệt len dạ gồm các phường hội như phường thợ kéo sợi, phường thợ dệt, phường thợ nhuộm.
Thành viên của các phường hội là những người thợ cả đồng thời là người chủ của các xưởng thủ công gia đình. Họ làm việc cùng với vợ con và những thành viên khác trong gia đình. Ngoài ra trong xưởng của họ còn có một số người thợ bạn và vài người thợ học việc. Thợ cả, thợ bạn, thợ học việc tạo thành một hệ thống đẳng cấp trong tầng lớp thợ thủ công. Trong giai đoạn đầu, khi phường hội mới thành lập, muốn trở thành thợ cả, mọi người thợ thủ công đều phải trải qua thời kì học việc và mấy năm làm thợ bạn. Đến khi tay nghề đã thành thạo, được phường hội thừa nhận, thợ bạn mới có thể tách ra lập xưởng riêng do mình làm thợ cả và mới có thể gia nhập phường hội.
Phường hội có tổ chức và quy chế rất chặt chẽ. Mỗi phường hội có một người cầm đầu gọi là Trùm phường do đại hội các thành viên bầu ra. Trùm phường có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiện quy chế của phường hội, xử lí những vụ vi phạm, giải quyết những xích mích giữa các thành viên v.v…. Quy chế của phường hội cũng do đại hội các chủ xưởng thảo ra, trong đó bao gồm những quy định rất chặt chẽ và chi tiết về các mặt :
– Quy mô sản xuất, bao gồm các khâu như số lượng công cụ lao động, số lượng thợ bạn và thợ học việc, thời gian lao động hàng ngày.
– Điều kiện để nhận thợ học việc, thời gian học việc và thời gian làm thợ bạn, chế độ thù lao đối với thợ học việc và thợ bạn.
– Chất lượng và quy cách sản phẩm, giá bán sản phẩm v.v…
Ví dụ trong bản Điều lệ của phường hội thợ dệt lông cừu Pari thế kỉ XIII về những vấn để đó đã được quy định như sau :
“Mỗi người thợ dệt lông cừu Pari, trong nhà có thể có hai khung cửi khổ rộng, một khung cửi khổ hẹp…
“Mỗi người thợ dệt lông cừu chỉ được kèm nhiều nhất là một người học việc, nhưng thời gian kèm cặp người đó không được ít hơn kì hạn phục vụ 4 năm, được thu 4 livre Pari, nếu kì hạn phục vụ là 5 năm thì được thu 60 xu Pari, nếu kì hạn phục vụ là 6 năm thì được thu 20 xu Pari, nếu kì hạn phục vụ là 7 năm thì không thu học phí”.
“Bất cứ người nào khi dệt vải không được trộn lông cừu vụn với lồng cừu tốt, nếu làm như vậy, mỗi tấm vải bị phạt 10 xu…”
“Bất cứ người nào trong phường hội không được bắt đầu làm việc trước khi mặt trời mọc…
“Thợ dệt, thợ bạn, khi hồi chuông báo hoàng hôn lần thứ nhất vang lên thì phải ngưng làm việc, không kể công việc của họ đang làm đến mức nào”.
Phường hội là tổ chức nghề nghiệp của thợ thủ công mang tính chất phong kiến. Biểu hiện chủ yếu của nền sản xuất thủ công nghiệp của phường hội là sản xuất nhỏ, trong đó người thợ thủ công còn gắn liền với tư liệu sản xuất như “con ốc sên không thể tách rời cái vỏ của nó”. Đồng thời, mục đích của việc sản xuất chủ yếu là để kiếm tư liệu sinh hoạt chứ không phải mưu cầu lợi nhuận.
Tuy vậy, trong thời kì đầu, phường hội đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất thủ công nghiệp cũng như đối với các mặt trong đời sống xã hội của thợ thủ công. Trong điều kiện nên thủ công nghiệp ở các thành thị còn nhỏ yếu, tổ chức phường hội đã bảo đảm cho việc sản xuất được tiến hành thuận lợi, đồng thời có tác dụng rất lớn trong việc duy trì, trau dồi và lưu truyền kĩ thuật sản xuất, do đó đã thúc đẩy sự phát triển của các nghề thủ công trong một thời gian nhất định.
Về mặt xã hội, phường hội trước hết là tổ chức đoàn kết tương trợ của thợ thủ công để đấu tranh chống lãnh chúa phong kiến, quý tộc thành thị và để giúp đỡ lẫn nhau mỗi khi gặp khó khăn hoạn nạn. Phường hội thường dùng quỹ của mình thu được bằng các khoản như hội phí, tiền phạt v.v… để trợ cấp cho những thợ thủ công ốm đau và gia đình của thợ thủ công bị chết.
Phường hội còn là tổ chức có tính chất quân sự và tôn giáo. Mỗi phường hội có một đội dân binh có nhiệm vụ tuần tra canh gác để bảo vệ thành phố và khi có chiến sự xảy ra thì lực lượng dân binh ấy là một đơn vị tác chiến độc lập. Mỗi phường hội lại có nhà thờ riêng và những ngày lễ, ngày hội riêng của mình.
Cùng với sự phát triển của nền thủ công nghiệp và sự ra đời của những ngành nghề mới, số phường hội ngày càng tăng nhiều. Ví dụ ở Pari, giữa thế kỉ XIII chỉ mới có 78 phường hội, thế mà sang thế kỉ XIV đã tăng đến 300 phường hội.
Đến thế kỉ XIV-XV, phường hội bắt đầu bước vào quá trình tan rã. Trước hết, những quy chế chặt chẽ của phường hội ngày càng tỏ ra không dung hoà được với yêu cầu phát triển không ngừng của nền sản xuất thủ công nghiệp. Quy chế của phường hội không cho phép mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến công cụ để nâng cao hơn nữa năng suất lao động. Vào thế kỉ XV, ở Colonhơ (Đức) có người đề nghị dùng guồng để kéo và xe sợi tơ, nhưng sau khi nghiên cứu, người ta đã đi đến quyết định là trước mắt cũng như tương lai không bao giờ dùng cái guồng ấy vì nếu sử dụng guồng thì những người thợ sống bằng nghề này sẽ chết.
Trước tình hình ấy, một số chủ xưởng bất chấp quy chế đã tự động mở rộng quy mô sản xuất, tăng thêm số lượng thợ bạn và thợ việc, kéo dài thời gian lao động trong ngày, cải tiến kĩ thuật… do đó đã dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo giữa các thành viên của phương hội.
Một số phường hội thì biến thành những tổ chức lũng đoạn của các chủ xưởng để bóc lột thợ bạn và thợ học việc. Ở đây, địa vị của thợ cả hầu như cha truyền con nối, vì vậy thợ bạn rất khó có điều kiện để trở thành thợ cả nên buộc phải làm thuê suốt đời cho chủ xưởng.
Trong khi đó, sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản càng thúc đẩy nhanh chóng quá trình tan rã của phường hội. Một số chủ xưởng giàu có đã thoát li sản xuất biến thành những lái buôn bao mua. Họ đem nguyên liệu đến đặt hàng cho những chủ xưởng nghèo túng để thu về thành phẩm hoặc nữa thành phẩm, như vậy họ đã biến những người này thành những người làm thuê cho họ.
2. Thương nghiệp
Thành thị không những là trung tâm thủ công nghiệp mà còn là trung tâm thương nghiệp. Lúc đầu, thợ thủ công cũng là người bán các sản phẩm của mình cho người tiêu dùng. Về sau, “sự phát triển thêm nữa của sự phân công lao động dẫn tới sự tách rời giữa lao động thương nghiệp với lao động công nghiệp Sự trao đổi hàng hoá trước hết diễn ra ở thành thị và vùng xung quanh. Địa điểm trao đổi hàng hoá chủ yếu là chợ của thành phố thông thường được lập ở gần nhà thờ lớn. Chợ thành phố họp mỗi tuần một hoặc hai lần. mỗi lần kéo dài suốt cả ngày. Hàng hoá được đem ra trao đổi ở đây là các sản phẩm thủ công nghiệp do thành thị sản xuất và các loại nông sản như lương thực, rau quả, thịt cá… từ nông thôn đưa ra thành thị.
Do điều kiện cụ thể của từng địa phương, vào thời kì này ở châu Âu đã diễn ra việc chuyên môn hoá về sản xuất. Nhiều địa phương, nhiều thành thị đã nổi tiếng về một mặt hàng nhất định. Ví dụ vùng Flăngđrơ và Bắc Pháp nổi tiếng về len dạ, Sampanhơ ở miền Đông nước Pháp nổi tiếng về vải lanh, Bác Italia nổi tiếng về vải bông. Milano và Nurơnbe nổi tiếng về vũ khí, Tây Ban Nha nổi tiếng về các loại da nhiều màu v.v…
Để trao đổi các sản phẩm của các nước châu Âu và các thứ hàng quý hiếm chở từ phương Đông tới như tơ lụa, đồ trang sức, các loại hương liệu (hồ tiêu, quế, đinh hương, gừng…), ở nhiều nước Tây Âu đã tổ chức hội chợ. Hội chợ lúc đầu họp mỗi năm một lần và kéo dài từ 1 đến 2 tuần. Đầu thế kỉ XII, các hội chợ Linlơ, Ipro… ở Flangđrợ đã tương đối nổi tiếng. Muộn hơn một ít, nhất là vào thế kỉ XIII, nổi tiếng nhất lại là các hội chợ ở Sampanhơ, (Toroay, Prôvanh, Ba, Lanhi. Do vậy, hội chợ hầu như được tổ chức quanh năm không dứt. Ngoài lái buôn Pháp, các nhà buôn nhiều nước châu Âu khác như Anh, Đức, Italia, Tiệp Khắc, Hunggari… đã chở các loại sản phẩm nổi tiếng của nước mình và của phương Đông đến đây để trao đổi. Đến thế kỉ XIV, các hội chợ ở Sampanhơ bị suy thoái và thay thế cho vị trí của nó là hội chợ Bruygiơ (Bruges) ở Flăngđrơ.
Trong khi đó, do việc buôn bán với phương Đông và ở các nước phía Bắc, ở châu Âu đã hình thành hai khu vực mậu dịch : một là khu vực Địa Trung Hải gồm các thành phố Giênôva, Venêxia (Italia), Mácxây (Pháp) và Bácxelona (Tây Ban Nha), hai là khu vực Bắc Hải và biển Ban Tích gồm các thành thị ở Bắc Đức, Đan Mạch, bán đảo Xcăngđinavi v.v…
Đến thế kỉ XIII, các thành phố ở Bắc Đức đã lập thành một liên minh thương nghiệp gọi là đồng minh Hanxơ. Sang thế kỉ XIV, đồng minh này càng phát triển, bao gồm hơn 70 thành phố, trong đó Luybếch (Lubeck) là trung tâm của đồng minh. Đồng minh có sở đại lí đóng tại nhiều thành phố của các nước khác như Nốpgôrốt (Nga), Bruygiơ, Luân Đôn. Thuyền buôn của đồng minh đã đến tận các hải cảng của Pháp ở Đại Tây Dương để mua rượu vang và muối. Đến thế kỉ XVI, đồng minh Hanxơ bị suy sụp và một mặt do sự phát triển của nền ngoại thương của Anh và Nedéclan, đồng thời do các cuộc phát kiến địa lí, trung tâm thương nghiệp của Tây Âu đã chuyển sang khu vực ven bờ Đại Tây Dương.
Sự phát triển của nền mậu dịch quốc tế đã dẫn đến sự ra đời của ngàn hàng. Ngân hàng bất nguồn từ nghề đổi tiền. Do tiền tệ ở các nơi khác nhau nên muốn mua bán ở các hội chợ thì phải đổi lấy loại tiền được lưu hành ở địa phương đó. Dần dần những người kinh doanh nghề đổi tiền đã cử những nhân viên của mình đến nhiều nơi ở châu Âu. Các lái buôn không cần mang tiền trong khi đi đường, vừa cổng kềnh vừa nguy hiểm mà chỉ cần đem tiền đến nộp cho người đổi tiền ở thành phố mình để nhận một giấy chuyển tiền rồi khi đến hội chợ sẽ nhận lại một số tiền tương ứng. Về sau, hoạt động của ngân hàng mở rộng kiêm cả việc nhận tiền gửi cho vay nợ v.v… Lúc đầu, kinh doanh nghề đổi tiền phần lớn là người Italia, vì vậy trong ngôn ngữ các nước phương Tây, chữ ngân hàng (bank) bắt nguồn từ chữ Banca trong tiếng Italia có nghĩa là cái bàn của người đổi tiền.