Trung Quốc thời Hạ, Thương và Tây Chu

1. Vài nét về xã hội nguyên thủy 

Trung Quốc đã từng trải qua xã hội nguyên thủy. Rất nhiều nơi trên lãnh thổ Trung Quốc đã phát hiện được nhiều di chỉ thuộc các thời kì đồ đá cũ và đồ đá mới. Tiêu biểu cho văn hóa đồ đá mới ở Trung Quốc là văn hóa Ngưỡng Thiều. Tại các di chỉ thuộc nền văn hóa này, bên cạnh các loại công cụ bằng đá được mài nhẵn, bằng xương, còn có đồ gốm bên ngoài màu đỏ có về hoa văn. Loại đồ gốm này chính là đặc trưng của văn hóa Ngưỡng Thiều, do đó văn hóa Ngưỡng Thiều còn được gọi là văn hóa đồ gốm màu. 

Ngoài các hiện vật khảo cổ học, các thư tịch Trung Quốc cũng ghi chép nhiều tư liệu phản ánh đời sống kinh tế và quan hệ xã hội của người nguyên thủy ở Trung Quốc. 

Thông qua các truyền thuyết, các thư tịch ấy cho biết rằng người nguyên thủy “sống chung với cầm thủ, nhưng” nhân dân ít mà cầm thú nhiều, nhân dân không thắng nổi cầm thú, rắn rết”, do đó, họ Hữu Sào đã dạy dân chặt cây làm tổ để tránh hại. Trong khi đó, người nguyên thủy cũng chưa biết dùng lửa, về sau họ Toại Nhân đã dạy dẫn đục gỗ lấy lửa, ăn thức ăn chín do đó tránh được bệnh tật. Sau đó, Phục Hi dạy dân kết thừng để làm lưới bắt cá, Thần Nông phát minh ra cày dạy dân nghề trồng trọt. 

Về quan hệ hôn nhân, thì lúc đầu có thể có quan hệ quần hôn nội tộc. Truyền thuyết kể rằng “Bàn Có có 6 trai 6 gái… tự lấy nhau thành chồng vợ. Vì vậy con cái chỉ biết mẹ chứ không biết cha”. Về sau Phục Hi mới bắt đầu đặt ra giả thú và đến cuối xã hội nguyên thủy thì đã thịnh hành chế độ một chồng nhiều vợ (thí dụ : Đế Cốc có một “nguyên phi” và ba “thứ phi”, Thuần lập “Nga Hoàng làm hậu, Nữ Anh làm phi”). 

Thư tịch Trung Quốc cũng ghi chép về tình hình xã hội thị tộc. Thiên Lê vận trong sách Lễ kí chép : “Thi hành đạo lớn thiên hạ là chung, chọn người hiền tài, chú trọng tín nghĩa và sự hòa mục. Do vậy, người ta không chỉ thân với người thân của mình, không chỉ yêu con của mình. Làm cho người già có chỗ dưỡng lão, trai trắng có chỗ dùng, trẻ nhỏ có chỗ nuôi nắng, những kẻ quan quả cô độc tàn tật đều có chỗ nuôi. Trai có nghề nghiệp, gái có chồng. Của cái không vứt xuống đất cũng không phải cất cho riêng mình, sức lực đều dốc hết nhưng không phải vì mình. Vì vậy, mưu mô xảo quyệt không dùng, trộm cướp giặc gia không có, do đó cửa ngoài không cần đóng, gọi là xã hội đại đồng”. 

Đến cuối xã hội nguyên thủy, theo truyền thuyết, ở lưu vực Hoàng Hà có nhiều thủ lĩnh bộ lạc nối tiếp nhau – đó là Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ. 

Truyền thuyết cho biết thêm rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiều đề nghị cử người khác làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc vì Nghiều đã già. Hội nghị liên minh bộ lạc đã bầu Ngu Thuấn, một người có đạo đức và tinh thần trách nhiệm lên thay. Đến khi Thuần già, hội nghị lại bầu Hạ Và là người có công lớn trong việc trị thủy lên làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc. 

Sau khi Vũ chết, con của Vũ là Khải lên thay thế. Chế độ bầu cử thủ lĩnh liên minh bộ lạc đến đây chấm dứt. Sự kiện đó đánh dấu xã hội thị tộc, giai đoạn lịch sử mà sử sách Trung Quốc gọi là thời kì “đại đồng” kết thúc. 

2. Triều Hạ (Khoảng thế kỉ XXI – XVI TCN) 

Nối chức thủ lĩnh của cha, Khải nghiễm nhiên trở thành một ông vua có quyền hành rất lớn. Từ đó về sau, việc cha truyền con nối ngôi vua được coi là một việc đương nhiên hợp với đạo lí. Thiên Lễ vận chép : 

“Nay đạo lớn đã mất, thiên hạ thành riêng, người ta chỉ thân với người thân của mình, chỉ yêu con của mình, của cái là của riêng mình, cha truyền con nối cho là hợp với lễ, lấy thành quách hào ao làm kiên cố, lấy lễ nghĩa để làm kỉ cương, để xác định địa vị của vua tôi…. để đặt ra các chế độ, để phân định cương giới ruộng đất, để bởi dưỡng tài năng cho những người dùng cảm và những người thông thái… vì vậy mưu mô được sử dụng và việc binh đạo do đó nổi lên…”. 

Đúng như vậy, sau khi trở thành ông vua đầu tiên ở Trung Quốc, Khải phải đương đầu với nhiều cuộc chống đối như sự phản kháng của Bá Ích thuộc bộ lạc Đông Di, một thành viên của liên minh bộ lạc trước kia, hoặc cuộc đấu tranh của họ Hữu Hổ thuộc bộ lạc Hạ. 

Đến thời con Khải là Thái Khang, Hậu Nghệ thuộc bộ lạc Đông Di lại khởi binh chống Hạ. Thái Khang chạy, Hậu Nghệ giành được chính quyền, nhưng Hậu Nghệ chỉ ham săn bắn, không chú ý đến việc nước nên bị bộ hạ của mình là Hàn Trạc giết để cướp ngôi. Chẳng bao lâu, một người dòng dõi nhà Hạ là Thiếu Khang được sự ủng hộ của một số thị tộc thần cận đã diệt được Hàn Trạc, nhà Hạ lại được khôi phục.

Tuy nhà nước đã ra đời, nhưng trình độ phát triển về mọi mặt còn rất . hạn chế. Nền Văn hóa Long Sơn chính là di tích phản ảnh tình hình kinh tế đời Hạ. Tại những di chỉ này, người ta đã phát hiện được đỏ đá màu, đồ gốm, và các loại dụng cụ làm bằng xương, sừng, vỏ trai. Đô đông cũng đã phát hiện được nhưng mới là đồng đỏ và số lượng cũng còn ít. Đồ gốm ở đây có nhiều màu như đen, xám, trắng, vàng, đỏ nhưng tiêu biểu nhất là loại đồ gốm đen bóng. Vì vậy văn hóa Long Sơn còn gọi là văn hóa đồ gốm đen. 

Bộ máy nhà nước cũng còn rất đơn giản, chỉ mới có một số chức vụ quản lí một số ngành kinh tế gọi là Mục chính (quản lí việc chăn nuôi), Xa chính (quản lí xe). Bào chính (phụ trách việc tiến dàng thức ăn cho vua) v.v…cụ bằng đá được mài nhẵn, bằng xương, còn có đồ gốm bên ngoài màu đỏ có về hoa văn. Loại đồ gốm này chính là đặc trưng của văn hóa Ngưỡng Thiều, do đó văn hóa Ngưỡng Thiều còn được gọi là văn hóa đồ gốm màu. 

Ngoài các hiện vật khảo cổ học, các thư tịch Trung Quốc cũng ghi chép nhiều tư liệu phản ánh đời sống kinh tế và quan hệ xã hội của người nguyên thủy ở Trung Quốc. 

Thông qua các truyền thuyết, các thư tịch ấy cho biết rằng người nguyên thủy “sống chung với cầm thú, nhưng” nhân dân ít mà cầm thú nhiều, nhân dân không thắng nổi cầm thú, rắn rết”, do đó, họ Hữu Sào đã dạy dân chặt cây làm tổ để tránh hại. Trong khi đó, người nguyên thủy cũng chưa biết dùng lửa, về sau họ Toại Nhân đã dạy dân đục gỗ lấy lửa, ăn thức ăn chín do đó tránh được bệnh tật. Sau đó, Phục Hi dạy dân kết thừng để làm lưới bắt cá, Thần Nông phát minh ra cày dạy dân nghề trồng trọt. 

Về quan hệ hôn nhân, thì lúc đầu có thể có quan hệ quân hôn nội tộc. Truyền thuyết kể rằng “Bàn Cổ có 6 trai 6 gái… tự lấy nhau thành chồng vợ. Vì vậy con cái chỉ biết mẹ chứ không biết cha”. Về sau Phục Hi mới bắt đầu đặt ra giá thú và đến cuối xã hội nguyên thủy thì đã thịnh hành chế độ một chồng nhiều vợ (thí dụ : Đế Cốc có một “nguyên phi” và ba “thứ phi”, Thuần lập “Nga Hoàng làm hậu, Nữ Anh làm phi”). 

Thư tịch Trung Quốc cũng ghi chép về tình hình xã hội thị tộc. Thiên Lễ vận trong sách Lễ kí chép : “Thi hành đạo lớn thiên hạ là chung, chọn người hiền tài, chú trọng tín nghĩa và sự hòa mục. Do vậy, người ta không chỉ thân với người thân của mình, không chỉ yêu con của mình. Làm cho người già có chỗ dưỡng lão, trai tráng có chỗ dùng, trẻ nhỏ có chỗ nuôi nấng, những kẻ quan quả cô độc tàn tật đều có chỗ nuôi. Trai có nghề nghiệp, gái có chồng. Của cái không vứt xuống đất cũng không phải cất cho riêng mình, sức lực đều dốc hết nhưng không phải vì mình. Vì vậy, mưu mô xảo quyệt không dùng, trộm cướp giặc gia không có, do đó cửa ngoài không cần đóng, gọi là xã hội đại đồng”. 

Đến cuối xã hội nguyên thủy, theo truyền thuyết, ở lưu vực Hoàng Hà có nhiều thủ lĩnh bộ lạc nối tiếp nhau – đó là Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ. 

Truyền thuyết cho biết thêm rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiêu đề nghị cử người khác làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc vì Nghiêu đã già. Hội nghị liên minh bộ lạc đã bầu Ngu Thuấn, một người có đạo đức và tinh thần trách nhiệm lên thay. Đến khi Thuần già, hội nghị lại bầu Hạ Vũ là người có công lớn trong việc trị thủy lên làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc.

Về văn hóa, hiện nay chưa tìm thấy chữ viết đời Hạ. Khổng Tử có nhắc đến lịch đời Hạ, nhưng lịch đời Hạ như thế nào, đời sau không được rõ. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể qua nghệ thuật chế tác đồ gốm, đồ đồng… để hiểu biết đòi nét về trình độ văn hoá lúc bấy giờ mà thôi. 

Đến cuối đời Hạ, vua Kiệt là một bạo chúa nổi tiếng, áp bức bóc lột nhân dân thậm tệ, cả nước oán hờn. Nhân đó, nước Thương mới thành lập đã tấn công Hạ, nhà Hạ diệt vong. 

3. Triều Thương (Khoảng thế kỉ XVI – khoảng năm 1066 TCN) 

Tương truyền rằng thủy tổ của tộc Thương là Khế, người đồng thời với Hạ Vũ, nhưng đến châu 14 đời của Khế là Thang (khoảng thế kỉ XVI TCN), tộc Thương mới bắt đầu chuyển sang xã hội có giai cấp. 

Trong khi nước Thương ở cùng hạ lưu Hoàng Hà không ngừng lớn mạnh thì nước Hạ ở trung lưu Hoàng Hà đang nhanh chóng suy yếu, nhân dân đang căm ghét vua Kiệt, nhân đó, Thang đã đem quân đánh Hạ. Kiệt thua chạy đến đất Nam Sào (An Huy). Nhà Hạ bị tiêu diệt, nhà Thương được thành lập. 

Khi mới thành lập, nhà Thương đóng đô ở Bạc ở phía nam Hoàng Hà, thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Nhưng từ đó, trong nội bộ giai cấp thống trị thường xảy ra những cuộc đấu tranh. Để làm yếu thế lực của tầng lớp quý tộc, đồng thời để tránh nước lụt, vua Thương đã dời đó nhiều lần và đến cháu 10 đời của Thang là Bàn Cạnh thì dời đến Ân ở phía bắc Hoàng Hà (cũng thuộc tỉnh Hà Nam). Cho đến khi nhà Thương diệt vong, chỉ trừ vua cuối cùng là Trụ đóng đó ở Triều Ca, còn thì đều lấy Ân làm kinh đô, vì vậy triều Thương còn gọi là Triều Ân. Cũng từ đó, nhà Thương phồn thịnh một thời. Trong số các vua nối tiếp sau Bàn Canh, Và Đinh có thể coi là một ông vua tốt của đời Thương. Tương tuyên rằng, thuở thiếu thời, Và Đinh sống trong dân gian, hiểu được “nỗi vất vả của việc cấy gặt”, do đó sau khi lên làm vua không dám ăn chơi mà chỉ lo cho đất nước được thịnh trị. 

Về mọi mặt, đời Thương có một bước phát triển lớn so với đời Hạ. Tình hình đó chủ yếu được phản ảnh trong các di chỉ Trịnh Châu và Ân Khư. 

Ở Trịnh Châu (Hà Nam) đã phát hiện được nên nhà, mộ, xưởng luyện đồng, xưởng làm đồ gốm, đồ xương, xưởng cất rượu.

Ân Khư chính là kinh đô của triều Thương, ở phía tây bắc thành phố An Dương tỉnh Hà Nam ngày nay. Tại đây đã phát hiện được khu lăng mộ của các vua Thương, phần mộ của quý tộc và của bình dân. Có thể nói các mộ ấy là sự thu nhỏ xã hội đời Thương, vì trong đó có chôn theo rất nhiều đồ tuần táng phản ảnh trình độ phát triển của nền thủ công nghiệp và sự phản hóa xã hội của Trung Quốc lúc bấy giờ. 

Tiến bộ nổi bật nhất trong nền kinh tế dời Thương là việc sử dụng phổ biến đổ đồng thau. Ngày nay đã phát hiện được hàng vạn đồ dùng bằng đồng thau đời Thương như đồ tế lễ, đồ uống rượu, vũ khí, cấu kiện xe ngựa, công cụ thủ công nghiệp v.v… Những đồ đông nói trên được chế tác với trình độ nghệ thuật rất cao, không những có hình dáng đẹp mà còn được trang trí bằng những hoa văn rất tinh vi. 

Trong số các đồ đồng thời Thương đã phát hiện được, tiêu biểu nhất là đỉnh Từ mẫu Mậu – đỉnh vua Thương đúc để tặng mẹ tên là Mậu. Đỉnh nặng 875 kg, cao 1,33m (kể cả tai), miệng định hình chữ nhật, chiều dài 1,10m, chiều rộng 0,78m. Đây là cái đỉnh lớn nhất đã phát hiện được ở Trung Quốc. 

Nghề làm đồ gốm đến đời Thương cũng có những tiến bộ mới. Ngoài các loại gốm đỏ, đen, xám, còn làm được đồ sành, đồ gốm trắng và gốm tráng men. 

Ngoài hai nghề quan trọng nói trên, các nghề khác như nghề làm độ đá ngọc, xương, đô gỗ, đồ da v.v… cũng tương đối phát triển. Hiện nay đã phát hiện được một cái khánh bằng đá đời Thương dài 84cm, cao 42cm dày 2,5cm, trên mặt chạm hình một con hổ với tư thế rất oai vệ. Cái khánh này là một trong nhiều nhạc cụ xưa nhất của Trung Quốc đã phát hiện được. 

Việc trao đổi buôn bán cũng đã khá phát triển. Tại các di chỉ đời Thương đã phát hiện được nhiều vỏ ốc biển là thứ rất hiếm ở vùng đó mà người đời Thương dùng để làm tiền gọi là bởi. Ngoài bối bằng vỏ ốc người ta còn phát hiện được bởi bằng đồng . Điều đó chứng tỏ vỏ ốc không đủ để đáp ứng yêu cầu trao đổi phải dùng bối bằng đồng để thay thế. 

Các di chỉ khảo cổ và các tài liệu chữ giáp cốt cũng cho biết rằng đến đời Thương, sự phân hoá giai cấp đã hết sức rõ rệt. Các loại đồ dùng bằng đồng thau, bằng ngà, bằng ngọc cũng như xe, ngựa là đồ dùng hàng ngày của giai cấp quý tộc. Khi chết, trong mộ còn chọn theo nhiều đồ dùng quý bầu và hàng chục hàng trăm người để hầu hạ. Hiện nay đã phát hiện được rất nhiều mộ thời Thương, trong đó, những mộ lớn nhất chiếm một diện tích đến bốn năm trăm mét vuông, cái bé cũng bốn năm chục mét vuông. Những người bị chọn theo trong các mộ của quý tộc phần lớn chắc là nô lệ.

Sự tồn tại của tầng lớp nô lệ khá đông dưới đời Thương là một vấn đề không cần phải bàn cãi nữa. Tuy nhiên, công việc chủ yếu của họ chỉ là làm các việc hầu hạ trong nhà, đánh xe, giữ ngựa v.v… mà thôi. Còn quân chúng lao động đồng đảo nhất và giữ vai trò chủ yếu trong việc sản xuất nông nghiệp là nông dân mà tài liệu chữ giáp cốt gọi là “chúng” hoặc “chúng nhân”.

Về văn hóa, đời Thương cũng có bước phát triển rất lớn. Ở di chỉ vương cung ở Ân Khư có rất nhiều mai rùa và mảnh xương trên đó khắc chữ giáp cốt. Đó là những thứ người đời Thương dùng để hỏi. Nhờ vậy, chữ viết đời Thương đã truyền lại đến ngày nay đồng thời đã cung cấp nhiều tư liệu lịch sử quý báu. 

Một thành tựu quan trọng khác trong nền văn hóa đời Thương là phương pháp làm lịch. Lịch đời Thương chia một năm làm 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Để cho khớp với vòng quay của quả đất xung quanh mặt trời, lịch đời Thương đã biết thêm tháng nhuận. Lúc đầu, tháng nhuận để ở cuối năm gọi là tháng 13, về sau đã biết để ở giữa năm. Lịch đời Thương dẫu chưa thật chính xác nhưng như vậy cũng đã rất tiến bộ. Đó cũng là loại lịch sớm nhất được biết đến ở Trung Quốc. 

Như vậy, Thương là một nhà nước trong đó về mọi mặt đã bước đầu phát triển. Nhưng đến cuối đời Thương, các vua thường dâm loạn, bạo ngược “không biết nỗi cực khổ của việc cấy gặt, không hiểu sự vất vả của nhân dân, chỉ thích vui chơi hưởng lạc”, vì vậy thời gian ở ngôi của họ đều ngắn ngủi. “Hoặc mười năm, hoặc bảy tám năm, hoặc năm sáu năm, hoặc ba bốn năm”. Trong số đó, nổi tiếng tàn bạo nhất là vua Trụ (còn gọi là Đế Tân), vua cuối cùng của đời Thương. Sách Sử kí của Tư Ma Thiên chép : (Trụ) đánh thuế nặng để lấy tiền chất vào kho Lộc Đài, lấy thóc chứa vào kho Cự Kiều, tăng thu chó ngựa của lạ để chất vào cung thất, mở rộng bài gò, vườn uyển, đình đài… lấy rượu làm hồ, treo thịt làm rừng”. 

Hơn nữa, Trụ còn dùng hình phạt tàn khốc để trừng trị nhân dân, lại luôn luôn gây chiến tranh với các bộ lạc xung quanh làm cho nhân dân càng thêm cực khổ, do đó nhân dân vô cùng oán giận. Nhân tình hình ấy, nước Chu ở phía tây vốn là một nước phụ thuộc của Thương đem quân tấn công Triều Ca. Nhà Thương diệt vong. 

4. Triều Tây Chu (khoảng năm 1066 – 771 TCN) 

– Tình hình chính trị 

Chu là một bộ lạc cư trú ở thượng lưu Hoàng Hà (vùng Thiểm Tây, Cam Túc ngày nay). Tương truyền rằng thủy tổ của tộc Chu là Khí, vì trồng lúa giỏi nên được gọi là Hậu Tác và được tôn làm thần nông nghiệp. Đến thời cháu 12 đời của Khí là Cổ Công Đàn Phụ, sự phân hóa giàu nghèo trong bộ lạc Chu đã biểu hiện rất rõ rệt. Vì bị người Nhung lần chiếm. Cổ Đông Đàn Phụ phải dời bộ lạc mình từ đất Mẫn đến đất Kỳ (Thiểm Tây) và định cư ở cánh đồng Chu. Tại đây, tộc Chu làm nhà cửa, xây thành quách, đặt “quan lại”. Những cuộc chiến tranh với bộ lạc xung quanh đem lại cho tộc Chu nhiều chiến lợi phẩm và nô lệ càng đẩy nhanh sự phân hóa giai cấp trong bộ tộc Chu. 

Đến đời cháu của Cổ Đông Đàn Phụ tên là Xương thì nước Chu chính thức thành lập. Xương chính là Chu Văn Vương, còn Cổ Đông Đàn Phụ thì được suy tôn làm Thái Vương. 

Văn Vương không ngừng củng cố và phát triển thế lực của mình, phạm vì thống trị mở rộng đến vùng Trường Giang, trong khi đó nước Thương đang ngày càng suy yếu. Văn Vương định tấn công Thương nhưng chưa kịp thực hiện kế hoạch đã mất. 

Bốn năm sau, người nối ngôi là Và Vương đem quân tiến đánh nước Thương. Khi quân Chu đến cách kinh đô Triều Ca 70 dặm, các quý tộc trong cung đình nước Thương mới biết tin và mới ngừng ca múa, giải tán tiệc rượu, để thảo luận kế hoạch “đối phó”. Lúc bấy giờ, quân chủ lực của Thương đang đi đánh các tộc ở phía đông nam không điều về kịp, nên vua Trụ phải trang bị vũ khí cho nô lệ và tù binh để đưa họ ra nghênh chiến. Nhưng khi ra đến mặt trận, đoàn quân này đã quay giáo khởi nghĩa, Do đó, quân Chu tiến vào Triều Ca rất thuận lợi. Vua Trụ hết đường trốn chạy phải tự tử. Nhà Thương diệt vong. 

Để mua chuộc quý tộc và cư dân vùng mới bị chinh phục, Vũ Vương phong cho con Trụ là Vũ Canh một vùng đất cũ của nước Thương và phong cho ba con mình là Quân Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc vùng đất bên cạnh để giám sát. Sau đó, Và Vương rút về Cảo Kinh ở phía tây, vì vậy, thời kì nhà Chu đóng đô ở đây gọi là Tây Chu. 

Hai năm sau, Vũ Vương chết. Người con nối ngôi là Thành Vượng còn nhỏ tuổi nên một người em của Va Vương là Chu Công nắm quyền nhiếp chính. Nhân tình hình đó, Va Canh lôi kéo Quản Thúc, Thái Thúc và một số nước nhỏ ở phía đông nổi dậy chống lại nhà Chu. Chu Công phải đem quân đi đánh, sau ba năm mới dẹp được. Vũ Canh và Quản Thúc bị giết Thái Thúc bị đày. Về sau, Thành Vương còn chinh phục nốt các bộ tộc Từ và Hoài ở phía đông nam. Bản đồ nhà Chu được mở rộng đến tận biển Đông. 

Trên cơ sở ấy, nhà Chu đã thi hành chính sách phân phong đất đai cho những người cùng họ, do đó đã lập nên một hệ thống nước chư hầu. Tương truyền rằng Va Vương, Chu Công và Thành Vương trước sau đã phân phong 71 nước, trong đó Lỗ, Vệ, Tề, Tấn, Yên v.v… là những nước tương đối lớn. Từ đó, Tây Chu bước vào thời kì cường thịnh. 

Nhưng đến thế kỉ IX TCN, do Lệ Vương thi hành chính sách giữ độc quyền rừng núi ao hồ nên nhân dân rất oán giận. Lệ Vương còn thẳng tay trừng trị những kẻ dám bàn tán kêu ca, vì vậy, mọi người gặp nhau ngoài đường chỉ đưa mắt ra hiệu chứ không dám nói chuyện với nhau. Trước tình hình ấy, một quý tộc thân cận là Thiệu Công đã nói với Lệ Vương rằng : 

“Bịt miệng dân còn nguy hiểm hơn chặn dòng nước. Nước chặn mà bị vô thì nhất định sẽ gây nhiều thiệt hại cho con người, dân cũng như vậy. Do đó, kẻ làm việc trị thủy là phải khơi cho nó cháy, kẻ làm việc trị dân là phải để cho họ nói”. 

Lời khuyên đó rất xác đáng nhưng không được Lệ Vương nghe theo, trái lại càng tăng cường áp chế nhân dân. 

Căm phẫn đến tột độ, năm 841 TCN, nhân dân vùng kinh kì nổi dậy khởi nghĩa Lệ Vương hốt hoảng bỏ kinh thành chạy đến đất Trị (Sơn Tây ngày nay) rồi chết ở đó. Con của Lê Vương là thái tử Tĩnh trốn vào nhà Thiệu Công. Bị quần chúng bao vây truy bức, Thiệu Công buộc lòng phải cho con trai của mình ra mạo xưng là Thái tử Tỉnh để quân khởi nghĩa giết chết. 

Sau khi Lệ Vương bị lật đổ, lịch sử Trung Quốc bước vào một thời kì kéo dài 14 năm gọi là thời kì “Cộng Hòa hành chính”. Đến năm 827 TCN, Thái tử Tĩnh được lên làm vua, hiệu là Tuyên Vương, nhà Tây Chu lại được khôi phục. 

Dưới thời Tuyên Vương, tình hình nhà Chu cũng tương đối ổn định, nhưng sau khi ông mất, Tây Chủ bị suy yếu rõ rệt. Người nối ngôi Tuyên Vương là U Vương, một kẻ chỉ thích ăn chơi xa xỉ, say đắm tửu sắc. Vì quá yêu nàng Bao Tự U Vương đã phế truất Hoàng hậu họ Thân và Thái tử Nghi Cứu rồi lập Bao Tự làm Hoàng hậu và con trai của nàng là Bá Phục làm Thái tử. Do vậy năm 771 TCN, cha của Hoàng hậu họ Thân là Thần Hầu liên kết với người Khuyển Nhung!!! đem quân đánh U Vương. U Vương thua chạy, bị người Khuyển Nhung giết chết.

Ngay sau đó, thái tử Nghi Cứu được lập làm vua, hiệu là Bình Vương. Nhưng Cáo Kinh đã bị người Khuyển Nhung tàn phá nặng nề nên phải dời đô sang Lạc Ấp ở phía đông. Thời kì Tây Chu đến đây chấm dứt. 

– Tình hình kinh tế xã hội 

+ Các ngành kinh tế 

Về công cụ sản xuất, thời Tây Chu chưa có tiến bộ gì đáng kể so với đời Thương tức là chưa vượt qua được thời đại đồng thau. Tuy vậy, nhờ sự tích lũy kinh nghiệm lâu đời, nhờ việc quy hoạch đồng ruộng gắn liền với hệ thống tưới nước, sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Trên cơ sở ấy, giai cấp thống trị đã thu được nhiều lương thực chất đây các kho. Phân ảnh tình hình ấy, bài Phủ điền trong kinh Thi có đoạn : 

Thốc của cháu vua 

Cao như nóc nhà 

Kho của cháu vua 

Như gò như núi. 

Về thủ công nghiệp, các nghề đúc đồng thau, và các nghề làm đồ gốm, đó đá, đỏ ngọc, xương da, gỗ, nghề dệt v.v… đều đạt đến trình độ khá cao. Trong số đó, sự phát triển của nghề đúc đồng trước hết biểu hiện ở số lượng đồ đồng thau tăng nhiều so với đời Thương. Hơn nữa, trên đô đông thường có khắc chữ mà nội dung nói về việc ban thưởng ruộng đất, nô lệ và những vấn đề liên quan đến chính trị, xã hội… Tiêu biểu cho đồ đồng thau thời Tây Chu là đỉnh Đại Vu nặng 399 kg, có khắc 291 chữ, trong đó có những câu : “Văn Vương nhận mệnh lớn ở trời… được ban nhân dân và đất nước”. Điều đó chứng tỏ đây là một cái đỉnh tượng trưng cho uy quyền của nhà Chu. 

Ở Trung Quốc cổ đại, những nghề thủ công quan trọng như nghề đúc đông, làm vũ khí, xe thuyền, đỏ ngọc… đều do nhà nước trực tiếp quản lí. Thợ thủ công làm việc trong các nghề đó đều lệ thuộc vào nhà nước. 

Tuy nền kinh tế Trung Quốc lúc bấy giờ mang nặng tính chất tự nhiên, những nhu cầu trong đời sống hàng ngày của nhân dân đều dựa vào kinh tế tự cấp tự túc, nhưng để phục vụ cho đời sống giai cấp quý tộc, việc trao đổi mua bán cũng đã diễn ra trong phạm vi cả nước. Nhiều loại hải sản hoặc các sản phẩm thủ công sản xuất ở hạ lưu Trường Giang được tiêu thụ tận vùng trung lưu Hoàng Hà. Tuy tiền tệ đã được sử dụng nhưng hiện tượng lấy vật đổi vật còn rất phổ biến. Có một tài liệu thời Tây Chu cho biết lúc bấy giờ người ta đã dùng nô lệ để đổi lấy ngựa và tơ. 

+ Chế độ ruộng đất 

Những tư liệu lịch sử nói về chế độ ruộng đất đời Hạ đời Thương rất ít ối. Theo Tư Mã Thiên, “con cháu đời Thương được phân phong, lấy nước làm họ, có họ Ân, họ Lai, họ Tống, họ Không Đồng, họ Trĩ, họ Bắc Ấn, họ Mục Di.

Đến thời Tây Chu, việc phân phong đất cho quý tộc và việc chia ruộng đất cho nông dân đã trở thành chế độ rất hoàn chỉnh. Sau khi chinh phục được nước Thung và các bộ tộc nhỏ khác, tất cả đất đai trong nước đều thuộc quyền sở hữu của vua Chu. Vì vậy, trong Kinh Thi có câu : 

Ở dưới gầm trời 

Đầu cũng đất vua 

Khắp trên mặt đất 

Ai cũng dân vua

Do quyền sở hữu thuộc về Nhà nước, nên ruộng đất không được mua bán. Ngoài vùng xung quanh kinh đô mà vua Chu giữ lại cho mình, gọi là Vương kì, đất đai trong cả nước được phân phong cho anh em bà con và các công thần của nhà vua. Khi phong đất còn kèm theo phong tước. Tùy theo bà con thân hay sơ, công lao lớn hay nhỏ mà được phong đất rộng hay hẹp, gần hay xa và tước cao hay thấp. Vua Tương Vương thời Đông Chu nói : “Ngày xưa tiên vương của ta có cả thiên hạ, giữ lại một vùng đất vuông, mỗi bề ngàn dặm để làm điện phục… Ngoài ra, đếm chia cho Công, Hầu, Bá, Tử, Nam làm cho mọi người cả nhà cửa, để thuận với trời đất, không gặp phải tai nan.

Những người được phong đất và tước trở thành các vua chư hầu của nhà Chu. Vua chư hầu tuy không có quyền sở hữu hoàn toàn về đất được phong nhưng được truyền lại cho con cháu. Đối với vua Chu, vua các nước chư hầu có nghĩa vụ hàng năm phải đến châu, nộp cổng, ngoài ra còn phải đem quân đội đến giúp mỗi khi có chiến sự xảy ra. Nếu không thi hành đúng những nghĩa vụ đó, thì tùy theo mức độ mà bị giảng chức tước, bị thu hồi đất phong hoặc bị đem quân đến để tiêu diệt. 

Ruộng đất trong Vương kì và trong các nước chư hầu lại đem phong cho các quý tộc quan lại của triều đình nhà Chu và triều đình các nước chư hầu gọi là khanh, đại phu. Khanh, đại phu lại chia thái ấp cho những người giúp việc của mình gọi là sĩ. Khanh, đại phu và sĩ được hưởng số thuế của phần ruộng đất được chia, nhưng khi thôi việc, phải trả lại số ruộng đất ấy. 

Cuối cùng, trong các làng xã, ruộng đất được chia cho nông dân để cày cấy. Mỗi hộ nông dân được chia một mảnh ruộng rộng 100 mẫu (bằng khoảng 2 ha) gọi là một điền. Để chia ruộng đất thành từng phần như vậy và để dẫn nước vào ruộng, người ta đắp những bờ vùng bờ thửa và đào những con mương, ngang dọc, do đó tạo thành những hình như chữ “tỉnh” ( ) ) ở trên cánh đồng nên gọi là “Tinh điền”. 

Như vậy, tỉnh điên là chế độ phân phổi ruộng công ở Trung Quốc cổ đại. Chế độ ấy tồn tại đến thời Chiến Quốc, khi ruộng từ xuất hiện thì dân dân tan rã. 

+ Quan hệ xã hội 

Cũng như đời Thương, thời Tây Chu trong xã hội có ba giai cấp là quý tộc, nông dân và nô lệ. 

Đứng đầu giai cấp quý tộc là vua bắt đầu từ đời Chu được gọi là Vương, là Thiên tử. Vua Chu có quyền rất lớn về hành chính và tư pháp. Ý chí của vua là pháp lệnh. Hơn nữa, với danh hiệu Thiên tử, vua Chu còn mượn cả uy trời để cai trị nhân dân. Vua Chu cũng là người có quyền sở hữu cao nhất về ruộng đất trong cả nước và do đó có quyền phân phong ruộng đất cho con em và công thần. 

Dưới Thiên tử là các vua chư hầu. Đó là những ông vua ở các địa phương với các danh hiệu Công, Hầu, Bá… các vua chư hầu có toàn quyền cai trị vương quốc của mình nhưng có nghĩa vụ phục tùng và triều cống Thiên tử. 

Dưới vua, chư hầu là các quan lại lớn nhỏ được gọi là khanh, đại phu, sĩ. Họ giữ các chức vụ trong triều đình nhà Chu và ở các nước chư hầu. Về kinh tế, tuy họ không có quyền sở hữu ruộng đất nhưng có quyền hưởng nguồn thuế khoá trên đất đai được phong. Theo sách Quốc ngữ, khanh của nước lớn có ruộng một lữ (khoảng 1.000 ha), thượng đại phu có ruộng một tốt (khoảng 200 ha). Qua đó có thể thấy số tổ thuế họ thu được cũng đáng kể. 

Nông dân là giai cấp đông đảo nhất và là lực lượng giữ vai trò quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp, là những người cày cấy ruộng “tỉnh điền”. Họ sống trong các làng xã mà ở đó từ xưa đã lập thành những công xã nông thôn. Những người có chức trách trong công xã định kì (thường là 3 năm một lần) phải tiến hành chia lại ruộng đất cho các hộ nông dân để “đất màu mở không được hưởng một mình, đất cần cối không phải chịu một mình”. Khi nhận phân ruộng mới thì đồng thời họ cũng đổi cả nhà. Trong các dịp thời vụ, các chức dịch của công xã còn có nhiệm vụ đôn đốc việc sản xuất. Thiên Thực hóa chỉ (thượng) của sách Hán Thư chép ; “Thời kì phồn thịnh của Ân Chu.. Về mùa xuân, khi sắp cho dân ra đồng, cứ sáng sớm, Lý Tư ngồi ở điểm bên phải, Lân Tướng ngồi ở điểm bên trái, nông dãn ra hết rồi mới về. Chiêu cũng như vậy”. 

Ngoài việc sản xuất nông nghiệp, nông dân còn làm một số nghề phụ khác như chăn tằm, dệt lụa kéo sợi, dệt vải v.v… Trong thôn xóm, họ “ra vào thân mật với nhau, xóm giềng giúp đỡ lẫn nhau, ốm đau cùng săn sóc nhau, cho nên nhân dân hòa mục”. 

Mặc dù nông dân được coi là “dân của vua” tức là dân tự do, nhưng bị áp bức bóc lột nặng nề. Nhận 100 mẫu ruộng công nằm trong lãnh địa của quý tộc, nông dân phải nộp thuế bằng khoảng 1/10 thu hoạch. Ngoài ra, họ còn phải nộp các khoản thuế phụ khác như lụa, da, thú săn… và phải làm tạp dịch như xây dựng dinh thự, thành quách, cầu đường v.v… Đời sống của họ rất cực khổ. 

Giai cấp có địa vị xã hội thấp kém nhất là nô lệ. Cũng như đời Thương, nguồn nô lệ chính là tù binh, ngoài ra còn có một số người đồng tộc bị biến thành nô lệ vì phá sản hoặc bị phạm tội. Công việc chủ yếu của nô lệ là hầu hạ và làm các công việc trong gia đình. Có một số được làm việc trong các xưởng thủ công và tổ chức buôn bán của nhà nước. 

Nô lệ thường bị thích chữ vào mặt và bị coi như hàng hóa để mua bán, đổi chắc, ban tặng. Thời Tây Chu, 5 nô lệ mới đổi được một con ngựa và một cuộn tơ. Lúc bấy giờ, tục dùng người để tuẫn táng vẫn thịnh hành. Trong số những người bị chôn theo ấy, chắc phân lớn là nô lệ.