Tình hình kinh tế chính trị xã hội Nhật Bản trước Duy tân Minh trị
Nhật Bản là một quốc gia đảo ở châu Á. Đất nước Nhật Bản trải dài theo hình cánh cung gồm 4 đảo chính : Honshu (Bản Châu). Hokkaido (Bắc Hải đảo) Kyushu (Cửu Châu) và Shikoku (Tứ quốc). Diện tích chừng 374.000 km. Nhật Bản nằm ở vòng cung núi lửa và luôn xảy ra chấn động. Đất nước nhiều núi, ít sông và sông ngắn, vùng đồng bằng trồng trọt chỉ khoảng 15%, là một vùng cần cối, ít tài nguyên, nhân dân Nhật Bản phải vật lộn vất vả để tồn tại và phát triển.
Nhờ vị trí cách biển khá rộng với Trung Hoa nên ảnh hưởng của vòng cung văn hóa Trung Hoa có nhiều hạn chế và do đó, Nhật Bản có khả năng tạo nên một thế giới mang bản sắc riêng.
Vào thời kì cận đại, cũng nhờ vào những điều kiện của riêng mình, Nhật Bản đã tìm được con đường tự hội nhập với thế giới phát triển, và với công cuộc Duy tân Minh Trị. Nhật Bản trở thành một đế quốc tư bản duy nhất ở châu Á.
1. Tình hình kinh tế và sự khủng hoảng của chế độ phong kiến
Vào giữa thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Nhật Bản Tokugawa sau mấy thế kỉ thống trị đã rơi vào tình trạng bế tắc, suy thoái, không thể nào đáp ứng sự phát triển, không đủ sức chống lại sự xâm nhập của đế quốc Âu-Mĩ.
Nền nông nghiệp dựa trên quan hệ phong kiến, quyền sở hữu đất đai thuộc về nhà nước phong kiến, tình trạng cát cứ không phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất. Pháp luật, không công nhận nông dân Nhật có quyền chiếm hữu đất đai mặc dấu họ được canh tác trên những mảnh đất cha truyền con nối. Việc mua bán đất bị cấm ngặt, nhưng trong thực tế việc gán đất đã xảy ra đến quy mô lớn. Vì thiên tai, mất mùa hoặc do bệnh tật trong các gia đình nông dân, họ không đủ sức nạp nghĩa vụ tô thuế, lao dịch nên phải gán đất cho nhà giàu ở nông thôn hay chủ buôn bán. người cho vay nặng lãi ở thành thị. Về hình thức, người nông dân vẫn giữ đất của mình và tiếp tục cày cấy nhưng thực ra, họ đã trở thành tá điển, không chỉ nộp tô thuế cho Daimys mà còn phải nộp tô tiền hay tỏ hiện vật cho chủ nợ. Người phủ nông chủ nợ, có quyền sở hữu đất đai, thực tế được gọi là Dzinusi tức là địa chủ. Ở Nhật Bản lúc bấy giờ còn khuyến cho chủ đất nhiều quyền lợi, được miễn khích khai hoang và đánh thuế trong một thời gian nhất định. Sắc lệnh khẩn hoang năm 1721 đã tạo điều kiện cho các thương gia cho vay lãi ở thành thị xuất vốn tham gia khai khẩn đất hoang Như vậy độc quyền chiếm hữu đất đai của quý tộc bị phá vỡ ở một mức độ đáng kể. Bên cạnh những lãnh chúa phong kiến truyền thống đã xuất hiện giai cấp địa chủ Dzinusi gồm phú nông và các nhà buôn cho vay nặng lãi.
Địa chủ bóc lột nông dân Nhật Bản nặng nề, vượt quá quy định pháp luật, mức tổ thuế trung bình 50% số thu hoạch. Song nông dân, và nhất là tá điển phải trả tô cho cả lãnh chúa lẫn địa chủ lên tới 70% thu hoạch hay cao hơn nữa.
Sự phát triển của các quan hệ hàng hóa, tiền tệ, hiện tượng chiếm hữu đất đai kinh doanh và việc hình thành những quan hệ mới, đã làm thay đổi các quan hệ trong nông nghiệp.
Diện tích trồng cây phục vụ công nghiệp và thị trường đem lại nhiều lợi nhuận như các cây bông, dâu, chế, thuốc lá, châm tăng nhanh Thời kì này Nhật Bản đã vượt lên trong sản xuất, cạnh tranh về hàng tơ lụa, làm cho nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển. Vào nửa đầu thế kỉ XIX, diện tích trồng bằng, đầu ở quanh các thành phố lớn như Osaka, Kybô đã vượt qua diện tích trồng lúa. Chính quyền Slogan thu tô thuế bằng tiền thay cho hiện vật. Từ năm 1722 – 1836 sổ lúa nộp cho Shôgan giảm 10% trong khi thuế thu hàng tiền tăng gấp 3 lần.
Một hiện tượng mới ở nông thôn là sự xuất hiện chế độ làm thuê nam, thuê tháng và thuế công nhật. Tuy ở Nhật Bản, việc nông dân ra khỏi lãnh địa đi làm thuê đều bị bắt trả về cho lãnh chúa, nhưng hiện tượng trốn khỏi lãnh địa vẫn xảy ra không gì ngăn chặn nổi. Nông dân đi kiếm việc làm ở thị trấn và những vùng thiếu lao động.
Vào đầu thế kỉ XIX, những dấu hiệu khủng hoảng của nền kinh tế tự nhiên ngày càng lộ rõ. Tình trạng mất mùa, đói kém, ôn dịch liên tiếp xảy ra. Trong 50 năm từ 1790 – 1840 theo tài liệu thống kê không đầy đủ, nước Nhật có 22 lần mất mùa, nạn đói bao trùm một phần khá lớn đất nước.
Quan hệ phong kiến tan và làm cho hàng vạn cư dân chạy ra thị trấn kiếm việc làm, tạo nên tầng lớp thị dân mới. Vào đầu thế kỉ XVIII những thành phố như Edễ, Osaka, Kyoto v.v.. đã có hàng chục vạn cư dân sinh sống. Thủ đô Êdô vào giữa thế kỉ XIX có tới gần 60 vạn dân, Ôxka có khoảng 30 vạn.
Vào đầu thế kỉ XVIII, đặc biệt là thế kỉ XIX, công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ và tác động trở lại đối với xã hội. Tổ chức sản xuất thủ công nghiệp truyền thống là các phường hội ở thành thị, lao động tại nhà của nông dân. Các công trường thủ công và phường hội đầu tiên xuất hiện ở các công quốc vào những năm 20 của thế kỉ XVIII. Chính quyền đã giao cho phường hội độc quyền sản xuất kinh doanh một thứ hàng hóa và phải nộp nhà nước một khoản nghĩa vụ bằng tiến.
Những thương đoàn lúa gạo, tơ lụa, thương nhân đông tới hàng ngàn. Thương đoàn lúa gạo Osaka có tới 1351 nhà, ở Ễđộ có tới 1706 nhà. Họ được độc quyền buôn bán trong nước.
Công trường thủ công phân tán, khá phổ biến đem lại hiệu quả cho nền sản xuất kinh doanh. Nông dân thường nhận nguyên liệu từ những chủ kinh doanh, sản xuất tại nhà và giao hàng cho chủ theo định kì. Sản phẩm của họ làm ra đều thuộc về chủ. Cũng có nhiều nơi, thực tế nông dân lĩnh lương của nhà buôn. Ở miền Trung Nhật Bản trên đảo Honshu trong các ngành tơ, lụa, kéo sợi, dệt vải, công nghiệp tại gia phát triển nhanh chóng. Mỗi khu vực trong nước chuyên môn sản xuất một mặt hàng nào đấy. Sự tiêu thụ ngày càng tăng vẻ vải lụa vào nửa đầu thế kỉ XVIII cho phép xuất hiện nhiều công trường thủ công dệt. Ở miền Nam trong công quốc Satsuma ngành sản xuất tơ lụa có nhiều xí nghiệp thuê từ 20 đến 30 công nhân.
Vào nửa sau thế kỉ XVIII công vài xuất hiện ở nhiều tỉnh, có đến tổ trường thủ công sản xuất lụa 100 công trường do phong kiến chức quản lí. Ở Tokyo năm 1850 có công trường có từ 10 đến 20 máy dệt. Trong những năm 50 – 60 đã xuất hiện công nghiệp luyện thép và những công xưởng đóng tàu ở các công quốc phía Tây Nam.
Tuy công nghiệp Nhật Bản có những bước phát triển nhưng gặp nhiều khó khăn. Tính biệt lập của các công quốc làm xuất hiện hàng rào quan thuế và đủ thứ hạn chế của chính phủ, đặc biệt là việc cấm nông dân không được bỏ đất, chạy ra thành thị.
Đến giữa thế kỉ XIX, số công trường thủ công lên tới hàng trăm nhưng công nghiệp chế tạo vẫn chưa ra đời. Tỉ lệ sản phẩm công nghiệp Nhật so với thế giới không đáng kể, ngành đúc đồng khoảng 6% và ngành sản xuất tơ cũng chỉ mới chiếm 10% (năm 1867).
2. Sự tan rã quan hệ giai cấp cú và xuất hiện giai cấp mới
Mặc dù chính phủ Shogun có làm cho nước Nhật vươn lên, nhưng lại muốn duy trì nguyên trạng các đảng cấp. Tuy vậy, quy luật phát triển xã hội đã thay đổi, quan hệ hàng hóa tiền tệ đã làm xói mòn những giá trị tưởng chừng bất biến, làm thay đổi các đảng cấp trong xã hội..
Daimyo là những quý tộc phong kiến lớn quản lí các vùng lãnh địa trong nước. Họ thực sự là một quốc vương của một lãnh địa, có chế độ thuế khóa, luật pháp và quân đội riêng. Ở Nhật Bản có gần 300 Daimyo có quyền lực lớn. Họ không duy trì được sự phát triển kinh tế xã hội, không đủ sức cung cấp nhu cầu cuộc sống cho mình và cho đạo quân võ sĩ Mâu thuẫn ngày càng lớn. Các Daimyo phân hóa thành hai thể lực.
– Thế lực của các phiên phía Bắc, kinh tế không phát triển, thành lực lượng bảo thủ. Đại diện là Daimyo ở Hokkaido.
– Thế lực của các phiên Tây Nam, tiếp xúc với thị trường kinh tế phát triển như Satsuma, Tosa, Choshu, Hizen đều giàu mạnh lên, có xu hướng canh tân, chống lại tính bảo thủ và sự hạn chế của chế độ quân sự phong kiến.
Samurai là tầng lớp được luyện cả văn và võ. Trừ một số Samurai lớp trên, đại đa số là bộ phận phục vụ quân sự của các Daimyo. Bộ phận này vào thời kì cận đại đa lên tới hơn hai triệu. Số lượng phát triển đông đảo làm cho các Daimyo không đủ sức thỏa mãn những nhu cầu kinh tế. Họ là người có học, có kiến thức tổ chức. và quân sự, là tầng lớp được ưu đãi trong xã hội phong kiến.
Cuộc đấu tranh phát triển xã hội làm cho họ phân hóa thành người kinh doanh, rời bỏ cuộc sống trong các lãnh địa để ra thành thị. Nhờ có học vấn nên họ nhanh chóng nắm được kiến thức mới. Họ trở thành bộ phận quý tộc có tư tưởng chống lại Shôgun, muốn tiến hành cuộc cải cách xã hội.
Thương nhân Osaka có vị trí đặc biệt quan trọng. Ôsaka là trung tâm kinh tế của Nhật Bản lúc bấy giờ. Những tập đoàn thương gia lúa gạo lớn đã nắm được mạch sống của đất nước. Các Daimyô gặp khó khăn kinh tế phải bán trước số thóc một hay vài năm, và như vậy họ tự rơi vào tình trạng lệ thuộc về tài chính. Các phú thương dán dẫn nắm lấy đất đai và do đó họ nắm cả nông dân, tham gia bóc lột trực tiếp. Đến nửa sau thế kỉ VIII, quyền sở hữu đất đai thực tế đã nằm trong tay các nhà buôn giàu có.
Daimyô thành con nợ của thương nhân, còn thương nhân tuy giàu có nhưng lại thiếu quyền lực và vị trí xã hội. Thương gia có thể dùng tiền mua tước hiệu Samurai, cũng có thể qua con đường hôn nhân với con cái Samurai để tạo nên vị trí của mình. Về pháp luật và cách nghỉ theo thói quen truyền thống, thương gia dù giàu có cũng không được coi trọng. Họ thường là chủ nợ của các lãnh chúa, của võ sĩ, thậm chí cả Tướng quân (Shogun) nhưng họ không có địa vị xã hội tương ứng.
Nông dân chiếm 80 % – 90% cư dân, là lực lượng cơ bản của nền sản xuất Nhật Bản. Nhưng vốn là tá điển của lãnh chúa, nông dân không có quyền rời khỏi lãnh địa, nếu trốn chạy, lãnh chúa có quyền bát về. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế nông dân càng khó khăn, hàng vạn người phải ra thành thị kiếm sống vì không có đất, không có việc làm. Đó là nguồn cư dân cơ sở của thành thị. Thân phận khốn khó của nông dân làm cho họ bất mãn với chế độ Tướng quân (Shogun).
3. Phong trào đấu tranh của nông dân và thị dân
Phong trào đấu tranh của nông dân như những đợt sóng xói mòn chế độ phong kiến. Thực ra thì ở Nhật Bản phong trào nông dân và dân nghèo chưa bao giờ lật đổ được chế độ thống trị và tạo nên những vương triều mới.
Nhưng do phải đấu tranh để sinh tồn, các cuộc khởi nghĩa của nông dân và thị dân ngày càng gia tăng. Theo thống kê thế kỉ XVII có 188 cuộc khởi nghĩa, thế kỉ XVIII có tới 514 cuộc và trong 67 năm của thế kỉ XIX có tới 538 cuộc. Các cuộc khởi nghĩa lan dẫn đến ven hoặc vào thành phố lớn như Êdo, Nagasaki, Takayama và cả hầm mỏ Ykunô.
Trong những năm 30 – 40 của thế kỉ XIX, do mất mùa, giá gạo lên cao, cuộc khởi nghĩa của nông dân lan ra thành thị đã thúc đẩy dân nghèo nổi dậy. Cuộc đấu tranh năm 1837 của Ôsyô Heihachiro – là một Samurai lãnh đạo, đã nổ ra ở Osaka. Những người khởi nghĩa đòi giảm thuế, giảm tổ, chống sự lộng hành của thôn trường, chống đầu cơ tích trữ của các thương gia và các chủ nợ.
Những cuộc đấu tranh của dân thành thị để ra khẩu hiệu mọi người bình đẳng. Có thể kể đến cuộc khởi nghĩa ở Bongô, Hiroshima, cuộc khởi nghĩa của Ikuta Yorosi ở Kashiwazaki, cuộc khởi nghĩa của 2000 nông dân ở Nôshi thuộc Setsu, cuộc nổi dậy của nông dân Ômi năm 1842.
Các cuộc khởi nghĩa cho thấy chính quyền Tokugawa sau mấy thế kỉ tồn tại đã đến lúc không đủ sức điều hòa các mâu thuẫn xã hội và giải quyết con đường phát triển xã hội của Nhật Bản.