Tổ chức giáo hội và sự chia rẽ giữa giáo hội phương Tây và phương Đông

1. Tổ chức giáo hội sơ kì phong kiến 

Sau khi biến thành quốc giáo của Rôma, để quản lí việc đạo trong toàn đế quốc, đạo Kitô đã thành lập 5 trung tâm giáo hội do Tổng giám mục đứng đầu. Đó là Côngxtăngtinôplơ, Antiốt, Giêrudalem, Alechxăngđri và Rôma. Sang thời trung đại, do tình hình chính trị ở Đông Roma (tức Bidantium) và phương Tây khác nhau, nên lịch sử phát triển của giáo hội Kitô ở hai miền cũng khác nhau. 

Ở phương Đông, các trung tâm giáo hội tổ chức theo đơn vị hành chính, nhưng Tổng giám mục ở Côngxtăngtinôplơ được giữ quyền lãnh đạo. Đồng thời do Đông Roma là một đế quốc thống nhất, ở đó chính quyền của hoàng đế rất vững mạnh nên giáo hội phải phục tùng quyền lực của hoàng đế. Hội nghị tôn giáo được triệu tập vào giữa thế kỉ V đã công nhận hoàng đế Bidantium là người có quyền cao nhất trong giáo hội và được gọi là “Hoàng đế giáo chủ”. Do vậy, hội nghị tôn giáo tuy được coi là cơ quan cao nhất của giáo hội phương Đông, nhưng quyền triệu tập hội nghị ấy, quyền quyết định các thành viên tham dự cũng như quyền phê chuẩn nghị quyết của hội nghị lại thuộc về hoàng đế. 

Còn ở phương Tây, từ thế kỉ V đã hình thành nhiều vương quốc của người Giécmanh. Vua và quý tộc các nước này đã nhanh chóng tiếp thu đạo Kitô làm cho thế lực của giáo hội ở đây càng thêm mạnh. Trong khi đó, Tổng giám mục Rôma tự xưng là Giáo hoàng, luôn luôn nuôi mưu đồ nâng cao địa vị của mình và chiếm quyền lãnh đạo toàn bộ giáo hội Kitô. Lợi dụng sự suy yếu và tình hình chưa ổn định của các quốc gia phong kiến do “man tộc” vừa mới lập nên ở Tây Âu, giáo hoàng không chỉ quản lí công việc của tôn giáo mà còn giành lấy chức năng về chính trị và hành chính nữa. 

Cơ sở vật chất của chính quyền giáo hoàng là các lãnh địa rộng lớn của các nhà thờ và tu viện thuộc giáo hội Rôma. Để thần thánh hoá địa vị của mình, giáo hoàng loan truyền rằng ngôi Tổng giám mục Roma vốn là do thánh Pie, người cầm đầu các môn đồ của chúa Giêsu sáng lập. Do vậy, giáo hoàng gọi lãnh địa của mình là “Lãnh địa kế thừa của thánh tông đồ Pie”. Giáo hoàng Leo I (440–461) còn dùng cả biện pháp dối trá, đã thêm vào bản dịch tiếng Latinh quyết nghị của hội nghị toàn thể tín đồ Kitô giáo lần thứ nhất một câu : “Giáo hội Rôma vĩnh viễn đứng hàng đầu”. Đến nửa sau thế kỉ VI, tuy về danh nghĩa, giáo hoàng Rôma vẫn lệ thuộc Bidantium, nhưng vì chính quyền của Bidantium ở Italia suy yếu nên thực tế được hoàn toàn độc lập. Do vậy, mưu đó làm chúa tể cả việc đạo và việc đời của giáo hoàng đối với thế giới Kitô giáo càng không bị ràng buộc. 

Một khi thế lực đã mạnh thì dã tâm của giáo hoàng cũng càng lớn. Nam 568, người Longba xâm nhập Italia. Như vậy, Italia bị người Bidantium và người Longba chia nhau chiếm đóng. Định lợi dụng sự đấu tranh giữa hai bên để mưu lợi ích riêng cho mình, giáo hoàng khi thì kí hiệp định với bên này, khi thì cam kết với bên kia. Đến khi thế lực của vương quốc Frăng lớn mạnh và ngày càng giữ vai trò quan trọng ở Tây Âu thì giáo hoàng Roma lại kết đồng minh với vua Frăng để chống lại người Lôngba. 

Năm 754 và 755, vua của vương quốc Frăng là Pepanh “Lùn” hai lần đem quân sang Italia đánh lại người Longba, chiếm được tỉnh Rôma và khu Ravenna rồi đến năm 756 đem những vùng đất ấy giao cho giáo hoàng. Từ đó, giáo hoàng có một lãnh thổ thực sự và quốc gia của giáo hoàng cũng giống như những vương quốc phong kiến khác ở Tây Âu. 

Để chứng minh bằng lịch sử cho quyền thống trị của giáo hoàng ở Tây Âu và để chứng minh quyền lực của giáo hoàng Roma cao hơn Tổng giám mục khác và cao hơn cả chính quyền thế tục, các giáo hoàng thường bịa ra những văn kiện giả mà cái gọi là “Sự trao tặng của Công tăngtinút” là một thí dụ tiêu biểu. Theo tài liệu giả này thì hoàng đế Công xtăngtinút trao cho giáo hoàng quyền lực ngang hàng với mình và tặng giáo hoàng thành Rôma, các thành phố khác ở Italia và đất đai ở phương Tây, còn bản thân hoàng đế thì lui về Công tăngtinôplơ ở phương Đông. Tất nhiên, mưu đồ ấy của giáo hoàng không thể không dẫn đến sự phản đối mạnh mẽ của các giáo chủ ở phương Đông và quyền của các nước lúc bấy giờ. 

2. Sự phân liệt giữa giáo hội phương Tây và phương Đông 

Trong thời kì trung đại, sự phát triển về chính trị, xã hội, văn hoá giữa Tây Âu và Bidantium có sự khác biệt rõ rệt. Tình hình ấy đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến vấn đề tôn giáo ở hai khu vực đó. Mưu đồ của giáo hoàng Rôma muốn ngự trị trên toàn bộ giáo hội Kitô càng làm cho mâu thuẫn trong tổ chức giáo hội hai khu vực này càng thêm gay gắt. Sự bất đồng giữa hai bên còn biểu hiện ở cách giải thích thuyết “Tam vị nhất thể”. Giáo hội phương Đông cho rằng chúa Thánh thần là do chúa cha sinh ra, còn giáo hội phương Tây thì cho cả chúa cha và chúa con sinh ra. Đồng thời, sự tranh giành nhau trong việc truyền giáo ở những nước lân cận cũng làm cho quan hệ giữa hai bên thêm căng thẳng. Do mâu thuẫn giữa hai bên phức tạp và sâu sắc như vậy, năm 867, Tổng giám mục ở Công tăngtinôplơ là Phôtiút đã triệu tập một cuộc hội nghị các giáo hội ở phương Đông để thông qua nghị quyết khai trừ giáo tịch của giáo hoàng Nicôla I và tuyên bố rằng việc can thiệp của giáo hoàng vào công việc của giáo hội phương Đông là không hợp pháp. 

Đến nửa đầu thế kỉ XI, giữa Tổng giám mục Công tăngtinôplơ Miken Kêrulariot (Michel Keroularios) và giáo hoàng Rôma Leo IX lại xảy ra sự tranh chấp về quyền quản lí các giáo sĩ ở Nam Italia. Do vậy, năm 1054, giáo hoàng sai sứ sang Côngxtăngtinôplơ vứt lên bàn thờ của giáo đường Xophia giấy khai trừ giáo tịch của Tổng giám mục Côngxtăngtinôplơ. Đáp lại hành động ấy, Tổng giám mục Công tăngtinôplơ yêu cầu hoàng đế Bidantium triệu tập một cuộc hội nghị tôn giáo để khai trừ giáo tịch sử giả của giáo hoàng. 

Từ đó, giáo hội Kitô chính thức phân chia thành hai giáo hội : ở phương Tây gọi là giáo hội Roma hoặc giáo hội Thiên chúa do giáo hoàng đứng dấu, ở phương Đông gọi là giáo hội Hy Lạp hoặc giáo hội Chính thống. Tuy chỉ có một số khác biệt nhỏ về nghi thức lễ thánh… nhưng hai giáo hội ấy hoàn toàn độc lập với nhau, thậm chí coi nhau như thù địch.