Văn hóa Rôma cổ đại
1. Khái quát chung
– Sau Hi Lạp, Rôma là quốc gia cổ đại của Phương Tây có nền văn hóa phát triển rực rỡ. Sự phát triển ấy có được nhờ 2 yếu tố cơ bản sau đây :
Thứ nhất : Nền văn hóa Rôma hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của sự phát triển mạnh mẽ của chế độ chiếm nó. Những thành tựu văn hóa của Rôma đã đạt được chính là kết quả tất yếu của sự phát triển toàn diện, điển hình của chế độ chiếm nô cổ điển ở khu vực Địa Trung Hải. Ph.Enghen đã nhận xét : “Không có chế độ nô lệ, thì không có quốc gia Hi Lạp, không có nghệ thuật và khoa học, Hi Lạp, không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Rôma cổ đại.
Thứ hai : Nền văn hóa Rôma đã được kế thừa một cách trực tiếp nên văn hóa Hi Lạp, đồng thời văn hóa Rôma cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện của nền văn hóa Hi Lạp.
– Cũng như Hi Lạp, nền văn hóa Roma phát triển toàn diện, rực rỡ. Những thành tựu xuất sắc trên tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết học… cho tới nay vẫn là những bộ phận hết sức quý báu trong kho tàng văn hóa thế giới, thậm chí còn là những mẫu mực để người đời sau bắt chước. Thành tựu văn hóa Rôma (và cả Hi Lạp) không những đã đảm bảo cho những quốc gia này trở thành những quốc gia điển hình trong thế giới cổ đại mà nó còn góp phần đặt nền móng cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại nói chung và châu Âu nói riêng ở những thời kì lịch sử tiếp theo đúng như nhận xét của Ph.Enghen : “Không có cơ sở văn minh Hi Lạp và đế quốc Rôma thì cũng không có châu Âu hiện đại.
– Ảnh hưởng của văn hóa Hi Lạp thể hiện khá rõ trong mọi lĩnh vực của văn hóa Rôma. Bởi thế, về đại thể, văn hóa Rôma có chung một phong cách với văn hóa Hi Lạp. Tuy nhiên, Rôma vẫn có những bản sắc riêng của nó. Yếu tố Hi Lạp được gieo trồng ở Rôma đã được Rôma hóa để được nuôi dưỡng, phát triển lên trở thành những yếu tố Rôma. Bên cạnh chữ Hi Lạp, tiếng Latinh vẫn được sử dụng và ngày càng trở nên thông dụng, phổ biến. Người Rôma tiếp thu hệ thống các thần Hi Lạp nhưng cải biên đi, mang sắc thái Roma. Thần Dớt của Hi Lạp với người Roma lại là thân Giupite. Thân ái tình Hi Lạp Aphrodit, với Roma là nữ thần Venuýt.
2. Văn học và sử học
– Văn học
Nét nổi bật của Văn học Rôma chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi Lạp mặc dù đề tài của thơ ca, tác phẩm văn học là những đề tài Rôma, viết bằng tiếng Latinh và có tiếp thu truyền thống văn học dân gian cổ xưa. Điều này cũng dễ giải thích vì nhiều nhà thơ, nhà văn Rôma vốn gốc là người Hi Lạp hoặc chí ít cũng đã từng sống, từng du học ở Hi Lạp.
Thời kì phát triển rực rỡ nhất của văn học Roma là thời kỳ trị vì của Octaviuxe (27 TCN – 14 sau CN). Văn học Rôma bao gồm nhiều thể loại : thơ trữ tình, thơ trào phúng, sử thi, kịch, văn xuôi… Trong số những đại biểu xuất sắc của nền văn học Roma, có Andrônicuxơ người Taranto – một thành bang Hi Lạp thuộc Nam Halia – ông đã dịch Ôdixê của Hôme ra tiếng Latinh để phổ biến rộng rãi ở Roma. Novisxơ với trường ca “Cuộc chiến tranh Punich” gồm 7 quyển. Macxiuxo Plônxơ (254 – 184 TCN) vừa là nhà thơ, vừa là nhà soạn kịch nổi tiếng. Thơ của ông thông cảm sâu sắc với quân chúng nghèo khó, căm ghét chiến tranh, tiêu biểu là tập thơ “ông chủ và những người nô lệ”. Catuluxơ (87 – 45 TCN) nữ thi sĩ trữ tình, em gái của quan bảo dân Claudiuxơ, tác giả của những bài thơ viết về nàng Lexhi nồng cháy yêu đường.
Xeda không những là một nhà chính trị, quân sự tài ba mà còn là một nhà sử học, văn học tài hoa. “Kí sự về cuộc chiến tranh ở xứ Gold” của Xeda đã đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện. Nhiều người cho rằng đó là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền Văn học – Sử học Rôma.
Viếcgiliuxe (70 – 19 TCN) được coi là nhà thơ lớn nhất của Roma cổ đại với những tập thơ nổi tiếng “Những bài ca của người chăn nuôi”, “Khuyến nông”, đặc biệt là tập thơ tự sự có tính chất thần thoại gồm 12 bài lấy tiêu đề “Eneít” phỏng theo Ôdixe của Home, ca ngợi sự dũng cảm, quyết liệt của người Rôma, ca ngợi sự phồn vinh của Roma thời Octaviuxe.
Horaliuxer là con của một nô lệ được giải phóng, đã từng du học ở Hi Lạp (Aten) chịu ảnh hưởng sâu nặng văn học, triết học Hi Lạp. Tác phẩm tiêu biểu là tập thơ “Ca ngợi” gồm 103 bài.
Ôvidiuxo (43 TCN – 17 CN) xuất thân từ một gia đình kị sĩ giàu có, tác giả của nhiều tập thơ nổi tiếng ở Rôma : “Tình ca”, “Nghệ thuật yêu đương”, “Nữ anh hùng”. “Những bài thơ buồn” và nhất là tập thơ “Biến hình” gồm 15 chung.
– Sử học
Đầu thế kỉ III TCN, lịch sử Roma bắt đầu được ghi chép thành văn. Lúc đầu các nhà sử học Rôma ghi chép lịch sử bằng tiếng Hi Lạp, từ cuối thế kỉ III TCN, tiếng Latinh đã được dùng phổ biến. Nhà sử học nổi tiếng nhất của Rôma ở thế kỉ II TCN là Polybiuxe (205 – 125 TCN), gốc người Hi Lạp. Bộ “Thông sử của ông gồm 40 quyển thuật lại một cách khái quát lịch sử Hi Lạp. Rôma và các nước Đồng bộ Địa Trung Hải trong khoảng hơn 100 năm (từ năm 264 đến năm 146 TCN). Polybiuxơ là nhà sử học Roma đầu tiên chú ý đến phương pháp sử học, chú ý đến việc biên soạn lịch sử nhiều nước và nhất là nhận thức rõ tác dụng giáo dục của lịch sử với cuộc sống, coi quan điểm sử học là triết học, lấy sự việc thật để dạy người đời.
Tituxo Liviuxe (59 – 17 TCN) người sống cùng thời với Octaviuxơ động thời cũng là nhà sử học tiêu biểu trong giai đoạn lịch sử này. Tác phẩm tiêu biểu : “Lịch sử Rôma” gồm 142 chương, trình bày lịch sử Rôma từ khởi thủy đến thế kỉ IX TCN. Tiếc rằng hiện nay bộ sử 142 chương này chỉ còn lại 35 chương.
Taxituxo (55 – 120) là nhà sử học sáng giá nhất của Rôma ở thế kỉ I, II, tác giả của bộ “Lịch sử”, “Lịch sử xứ Giécmani”, “Lịch sử biên niên”. Nét đáng ghi nhận ở Taxituxơ là ông viết sử không chỉ có ca ngợi mà còn nhiều lần phê phán những điểm xấu xa của chế độ chuyên chế Rôma.
Polutác (50 – 125) gốc người Hi Lạp, tác giả của “tiểu sử so sánh” (hay còn gọi là “Truyện “các danh nhân Hi Lạp Rôma” ; với bút pháp tài tình, Polutác đã phác họa rõ nét, chân thực và sinh động các danh nhân trong lịch sử Hi Lạp Rôma. Polutác là người đầu tiên xây dựng cơ sở cho thể loại truyện kí lịch sử và là người đầu tiên đã đưa nhân vật Xpactacuxơ vào tác phẩm sử học của mình.
3. Khoa học tự nhiên
Về khoa học tự nhiên (thiên văn, vật lí, địa lí, y học…), người Rôma không đạt được những thành tựu lớn như người Hi Lạp. Về cơ bản, các nhà khoa học tự nhiên Rôma chủ yếu là tiếp thu chỉnh lí những thành tựu vốn có trước của người Hi Lạp (có bổ sung những kiến thức mới).
Nhà khoa học Poliniuxơ (23 – 79) được coi là học giả uyên thâm nhất. Bộ sách “Lịch sử tự nhiên” gồm 37 chương là một bộ bách khoa toàn thư của Roma cổ đại, tổng kết những thành tựu khoa học kĩ thuật cổ đại gồm đủ mọi tri thức về thiên văn, địa lí, động vật học, thực vật học, nông học, luyện kim, y học, hội họa, điêu khắc.. (5) Poliniuxơ cũng là nhà khoa học Rôma đầu tiên chú trọng đến phương pháp thực nghiệm và chính ông đã bỏ mình (năm 79) trong khi đang tiến hành khảo sát núi lửa Veduvơ. Nhà thiên văn học, địa lí học và toán học xuất sắc nhất của Roma là Claudiuxo Pilêmê (giữa thế kỉ II) sinh trưởng ở thành phố Alếchxandri (Ai Cập). Ptoleme đã đúc kết những thành tựu thiên văn của Ai Cập, Babilon, Ba Tư, Hi Lạp để biên soạn bộ sách “Hệ thống vũ trụ…2), Ptolemê thừa nhận quả đất hình cầu, nhưng lại sai lầm khi cho rằng quả đất là trung tâm của vũ trụ và đứng yên tại chỗ. Học thuyết của Ptoleme đã chi phối khoa học thiên văn châu Âu trong suốt 1400 năm, mãi tới thế kỉ XVI mới bị học thuyết của Côpécních đánh đổ. Ptolemê còn được thừa nhận là người đã vẽ được bản đồ thế giới tương đối chuẩn xác nhất. Bản đồ thế giới của Ptoleme lúc đó có 3 châu – Á, Âu và Phi – Với vùng cực Bắc là bán đảo Xoăngđinavơ, vùng Cực Nam là lưu vực sông Nin, phía tây là đất đai xứ Tây Ban Nha, còn phía đông là Trung Quốc.
Đại biểu xuất sắc của lĩnh vực y học Roma là Claudiuxo Galénuxe (131 – đầu thế kỉ III) gốc người Tiểu Á. Galénuxơ đã tổng kết được những thành tựu y học, được học và biên soạn nhiều sách giáo khoa y học, được học, giải phẫu học. Sách của ông đã được địch và sử dụng ở nhiều nước. Galenuxơ cũng là nhà y học thực nghiệm đầu tiên của Rôma
4. Triết học
Triết học Rôma không phong phú và sáng tạo như triết học Hi Lạp. Nhìn chung triết học Rôma chủ yếu là kế thừa và phát triển các trường phái, học thuyết triết học Hi Lạp, có cải biên hoặc làm sáng tỏ thêm để thích hợp với thời đại lúc bấy giờ. Triết học Rôma cũng bao gồm nhiều trường phái khác nhau : triết học duy vật, chiết trung, khác kỉ, hoài nghi, trường phái Platon mới, trường phái Pitago mới…
Nhà triết học duy vật tiêu biểu và xuất sắc nhất là Lucretiuxe (98 – 55 TCN) người sống cùng thời với Xéda. Lucretiuxe đã phát triển quan điểm triết học duy vật của Epicuya (Hi Lạp). Trong tác phẩm “Bàn về bản chất của sự vật), Lucretiuxơ đã phê phán kịch liệt quan điểm tôn giáo, bác bỏ những quan niệm mê tín, tin vào thân thánh. Trong thuyết nguyên tử, ông cho rằng vạn vật trong vũ trụ đều do nguyên tử tạo thành và phát triển theo quy luật nội tại của nó, có tính bảo toàn, vĩnh hằng, không bị tiêu huỷ hoàn toàn mà chỉ có hiện tượng tan rã của những vật thể mà thôi. Lucretiuxơ còn có những đóng góp đáng kể trình bày về nguồn gốc loài người và sự tiến hóa của xã hội loài người theo quan điểm triết học duy vật biện chứng.
Từ giữa thế kỉ I TCN trở đi, triết học Rôma chuyển dân sang phạm trù duy tâm, cơ sở của nó là trường phái Xtbixít của Hi Lạp.
Xixêrô (106 – 43 TCN) là đại biểu lỗi lạc của triết học chiết trung. Quan điểm của ông đứng giữa chủ nghĩa hoài nghi và chủ nghĩa khắc kĩ. Công lao lớn của Xixêrô là đã dịch các tác phẩm triết học Hi Lạp sang tiếng Latinh, giúp cho người Rôma (sau này là cả người châu Âu) tiếp xúc và nắm bắt được triết học Hi Lạp.
Xénecơ, thầy dạy của bạo chúa Nêrô, là đại biểu xuất sắc nhất của trường phái triết học duy tâm thuộc phái Xtôixít, phái khác kỉ. Ông viết khá nhiều “Bàn về nhân từ”, “Bàn về phẫn nộ”, “Bàn về sự yên tĩnh”, “Bàn về cuộc sống hạnh phúc”….., trong các tác phẩm của mình, Xénecơ chú ý nhiều tới phạm trù đạo đức, chủ trương nhẫn nhục, chịu đựng gian khổ, lấy sự phục tùng làm đức tính tốt đẹp của con người.
Ở Rôma cổ đại còn tồn tại những học thuyết của trường phái triết học duy tâm Pitago mới và Platon mới”. Các học thuyết này cho rằng con người không có khả năng nhận thức được chân lí, chỉ có các thần thánh mới có khả năng này.
5. Tôn giáo
– Tôn giáo Rôma ở những giai đoạn đầu
Lúc đầu người Rôma cũng theo đa thần giáo. Họ cho rằng mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên đều có sức sống, sức mạnh siêu tự nhiên, thần bí. Từ khi tiếp xúc với văn hóa Hi Lạp, người Rôma đã tiếp thu hệ thống thần thánh của Hi Lạp và gọi tên các thần Hi Lạp theo kiểu Rôma.
Thân chủ tối cao – thần Dớt (Zeus) của người Hi Lạp là thần chủ tối cao – thần Giupite (Jupiter) của người Rôma. Nữ thần Hera (vợ Dốt) với người Rôma là nữ thần Giunon (Junon) – thần của nữ giới và hôn nhân gia đình. Thổ thần Đêmétê của người Hi Lạp trở thành thần ngũ cốc Xérét (Xérès) bảo vệ mùa màng Rôma.
Thân Venuýt – thần sắc đẹp và tình yêu – của người Rôma chính là bắt nguồn từ thân Aphorodit trong thần thoại Hi Lạp… Người Rôma còn tồn thờ thần chiến tranh – thần Mácxơ (Mars) và thần chủ trì, điều hòa hạnh phúc gia đình, thần Vexta (Vesta).
– Sự ra đời và truyền bá của đạo Kitô
Theo truyền thuyết người sáng lập ra đạo Kito(l) là Giêsu Crit (Jésus Christ) con của Đức chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria, được sinh ra ở Bétléem vùng Palextin – một tỉnh của đế quốc Rôma. Năm 30 tuổi, tự nhận mình là thiên sứ. Giêxu Crít bắt đầu truyền giáo ở Giêrudalem, ông tuyên truyền tư tưởng bình đẳng, bác ái của con người trước. Chúa, lòng tin nơi thiên đàng và lên án chế độ cai trị hà khắc của Rôma, Những tư tưởng của Jésus nhanh chóng đáp ứng những khao khát, hi vọng của quần chúng lao khổ vốn quá khổ đau lúc đó : Sự an ủi vì được bình đẳng trước Chúa,h i vọng được Chúa dắt ra khỏi cảnh sống đọa đầy, hi vọng được đến “Vương quốc của Chúa”.
Thời gian truyền giáo của Giêxu rất ngắn ngủi, sau 3 năm truyền đạo, giai cấp quý tộc chủ nô Rôma đã cho ông là kẻ gieo rắc một tôn giáo phản loạn, tập hợp quần chúng chống đối Rôma, đã kết tội ông. Giêxu Crát bị hành hình “đóng đinh câu rút” treo trên cột gỗ hình chữ thập(2) Lúc đó, Giêxu Crit 33 tuổi. Sau cái chết thảm thương của Giêxu Crit, các môn đô của ông đã tiếp tục bí mật truyền bá những giáo lí của Giêxu Crit ở vùng Palextin, sau đó khắp đế quốc Rôma và ngay trên đất Italia. Mặc dù chính quyền Rôma đã đàn áp thẳng tay và tìm mọi cách để ngăn chặn, những tư tưởng của Giêxu Crít vẫn tiếp tục trở thành một phong trào xã hội thu hút đồng đảo nô lệ và dân nghèo, Kitô giáo đã hình thành từng bước như vậy, cuối cùng trở thành tôn giáo độc tôn ở Rôma. Kitô giáo đã xuất hiện trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Rôma, trải qua năm tháng và có những cơ sở xã hội, tôn giáo và triết học.
Trong các thế kỉ II. I TCN, hầu hết các tộc người ở khu vực Địa Trung Hải đã nằm trong sự khống chế, cai quản của đế quốc Rôma. Theo phương châm “Cạo lòng chứ đừng lọt đa”, giai cấp quý tộc Roma đã tăng cường ách áp bức, bóc lột tàn nhẫn cư dân Italia và các tộc người lệ thuộc. Quần chúng lao khổ – nô lệ và dân nghèo – đã nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa, nhưng tất cả các phong trào đó, trước sau đều bị dìm trong biển máu. Quân chúng càng bị bóc lột càng cảm thấy bất lực, thất vọng trước cuộc sống thực tại, luôn mơ tưởng đến sự giải thoát và sẵn sàng tin theo những tư tưởng mà Giêxu Crit truyền bá. Kitô giáo gặp một miếng đất tốt để này hạt, phát triển. Do vậy, buổi ban đầu, “Kitô giáo là tôn giáo của những người nô lệ, của những người tự do, của những người nghèo khổ và những dân tộc bị nô dịch hay bị Rôma hóa.
Xét về nguồn gốc triết học, khi Kitô giáo xuất hiện, những trường phái triết học duy tâm khác kỉ đang được phổ biến sâu rộng ở Rôma. Đó là những tư tưởng triết học của Xénecơ, Philô cho rằng thể xác là gánh nặng của linh hồn, cuộc sống hiện tại đây tội lỗi chỉ là khúc dạo đầu của cuộc sống thật ở thế giới bên kia. Những tư tưởng ấy cũng chủ trương sống nhãn nhục, chịu đựng, lấy phục tùng làm đức tính tốt đẹp của con người.
Triết học duy tâm khắc kĩ đã tạo ra những cơ sở tư tưởng lí luận của giáo lí Kitô giáo. Đó là chưa kể khi Kitô giáo xuất hiện, đạo Do Thái của người Hebra đã một thời chi phối ở khu vực Palextin, Cận Đông. Ph. Enghen đã nhận xét : “Sự hỗn hợp của thần đạo phương Đông đã được phổ biến hóa, nhất là thần học Do Thái, với nền triết học Hi Lạp đã được dung tục hóa, nhất là triết học khác kỉ – đã đóng góp phần tạo nên học thuyết Kitô giáo”.
Học thuyết Kitô giáo cho rằng có một Đức chúa Trời sáng tạo ra muốn loài ; Đức chúa Trời có 3 ngôi : Đức chúa Cha, Con và thánh thần. Ngoài kinh Cựu ước tiếp thu từ đạo Do Thái, Kitô giáo còn có kinh Tân ước. Những luật lệ cơ bản của Kitô giáo tóm tắt trong kinh 10 điều răn của Đức chúa Trời.
Thờ phụng và kính Chúa trên hết mọi sự.
Chớ kêu tên Đức chúa Trời vô cớ.
Giữ ngày chúa nhật.
Thảo kính Cha mẹ.
Chớ giết người.
Chớ tà dâm.
Chớ trộm cắp.
Chở nói dối.
Chớ muốn vợ chồng người.
Chớ tham của người.
Buổi ban đầu. Kitô giáo thu hút các tín đồ trong đám cư dân nghèo khó nô lệ, dân nghèo thành thị… – Những tín đồ này lập ra các công xã nhỏ, tổ chức của những người cùng tôn giáo, bình đẳng và cùng giúp đỡ nhau. Hơn thế nữa, Kitô giáo lại tuyến truyền sự bình đẳng (dù là trước Chúa) và dự báo đế quốc Roma đây tội lỗi, sẽ có ngày bị diệt vong, do vậy ngay từ đầu, giới thống trị Rôma đã coi Kitô giáo là tà giáo, các tín đồ là kẻ phản loạn và thẳng tay đàn áp. Năm 64 nhân vụ thành Rôma bị cháy, Nero đã vu cho các tín đồ Kitô giáo là thủ phạm, đã tiến hành một cuộc thảm sát đẫm máu các tín đồ Kitô giáo. Đến thời Điocletianuxơ lại xảy ra một cuộc tàn sát với quy mô lớn đạo Kitô. Điocletianuxơ đã ra lệnh thiêu huỷ các giáo đường, đối kinh thánh, dùng cực hình ép buộc các tín đồ bỏ đạo. Sự đàn áp và chống đối tôn giáo còn tiếp tục kéo dài gần hết thế kỉ II sang thế kỉ III. Sự khủng hoảng xã hội đã tạo ra tâm trạng chán nản, bi quan ngay trong cả trong tầng lớp thượng lưu. Một số gia đình quý tộc cũng bắt đầu đến với Kitô giáo. Kitô giáo không bị giải thể, số tín đồ vẫn không ngừng tăng lên. Sự tham gia của tầng lớp quý tộc đã phần nào làm điều chỉnh lại những tư tưởng quan điểm của Kito giáo. Tư tưởng ôn hòa, thoả hiệp hợp tác dẫn dân chi phối các tín đồ. Khẩu hiệu đối lập quyết liệt trước đây với chính quyền Roma “Hay trả lại cho Xeda cái gì của Xeda và trả lại cho Chúa cái gì của Chúa” được dần thay bằng lời khuyên trong kinh phúc âm : “Hay hiến dâng tất cả lòng trung thành cho Xéda và Chúa”. Do vậy, giai cấp thống trị Roma thấy rằng có thể sử dụng Kitô giáo như một công cụ tinh thần, tập hợp thu phục và cai trị con dân toàn đế quốc. Năm 313, Hoàng đế Cônxtantinuxơ bản bố sắc lệnh xác nhận địa vị hợp pháp của Kitô giáo ở Rôma. Năm 325, chính vị Hoàng đế này đã triệu tập đại hội các giáo chủ Kitô giáo ở Nixê (thuộc Tiểu Á) để xác định giáo lí, chấn chỉnh, củng cố kiện toàn tổ chức giáo hội Kitô. Năm 337, trước lúc chết, Cônxtantinuxơ đã chịu làm phép rửa tội theo Kitô giáo mở đầu cho sự kiện các hoàng để Rôma sau này theo Kitô giáo. Đến thời Hoàng đế Tèod)diuxơ (379 – 395), Kitô giáo được chính thức thừa nhận là quốc giáo của đế quốc Roma. Kinh Cựu ước (viết bằng ngôn ngữ Hebro) và kinh Tân ước (viết bằng ngôn ngữ Hi Lạp) được chuyển sang tiếng Latinh, thành kinh thánh của đạo Kito.
Trải qua những thăng trầm lịch sử, Kitô giáo từ chỗ là tôn giáo của những người nghèo khó, chống đối chính quyền, đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất của chính quyền Rôma, thành một bộ phận của guồng máy thống trị.