Nguồn sử liệu và tình hình nghiên cứu
1. Nguồn sử liệu về lịch sử
Rôma khá phong phú, toàn diện bao gồm những tài liệu, hiện vật của khảo cổ học, dân tộc học, chữ viết, văn học…
– Trước hết phải kể đến nguồn tài liệu, hiện vật của khảo cổ học.
Ngay từ những năm đầu của thế kỉ XVII, các nhà khảo cổ châu Âu đã phát hiện được nhiều hiện vật bằng đá, bằng đồng của cư dân Étoruxcơ. Năm 1748, huân tước Arunde đã tiến hành khai quật một trong những thành phố cổ ở Nam Italia – thành phố Pompây. Năm 1964, các nhà khảo cổ liên tiếp khai quật một loạt những thành phố cổ của người Êtoruxoơ gần thành Rôma – thành Marxốpbo, Xpinan, Pirgi – Những hiện vật đầu tiên liên quan đến thành Rôma được phát hiện lần đầu ở hạ lưu sông Tibrơ. Đó là những di tích đến miếu, nhà ở, đường sá, máng dẫn nước, khải hoàn môn, nhà hát, hí trường và hàng loạt những di tích kiến trúc khác. Các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện được nhiều hiện vật quý ngay ở thành Rôma như khu di tích kiến trúc đền thờ Patênôn, cung điện Xbolittơ. Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy hàng loạt di tích thuộc thời đại Rôma ở các nước châu Âu, Tiền Á, Bắc Phi nhất là các di tích của những thành phố cổ Pompây, Gerculannum (Italia), Xalanút (dão Crét), Akvinka (Hunggari), Tringada (Bắc Phi)…
Ngoài ra cũng đã phát hiện được nhiều di tích điêu khắc, hội họa và nghệ thuật khác như các đồ tế lễ, đồ trang sức, kể cả những xích trói nô lệ… hầu như ở khắp nơi trên lãnh thổ đế quốc Roma rộng lớn.
– Tài liệu chữ viết là nguồn tài liệu hết sức quan trọng. Ở Rôma, nguồn tài liệu này khá phong phú, đa dạng.
Người ta đã tìm thấy khoảng gần một vạn tài liệu chữ viết cổ nhất ở Rôma của người Étoruxcơ (trong đó chủ yếu là bia, mộ chí) khi khai quật thành phố cổ Pirgi của người Etoruxcơ, đã tìm thấy 2 lá vàng mỏng có khắc chữ cổ nhất Rôma. Từ đầu thế kỉ V TCN, các tài liệu chữ viết của Rôma thường là chữ viết Étoruxcơ và Phênixi…. Ngoài ra cũng có những tài liệu viết bằng tiếng Rôma cổ – một nhánh của ngôn ngữ latinh sau này – ở vùng Nam Italia, người ta đã tìm thấy nhiều tài liệu chữ viết bằng tiếng Hi Lạp.
Nhìn chung tài liệu chữ viết phong phú, đa dạng thuộc nhiều thời kì lịch sử khác nhau, nhưng nhiều nhất vẫn là những tài liệu nói về thời kì đế chế (khoảng thế kỉ I, III) và có thể được chia thành 2 nhóm :
Nhóm một là những tài liệu chữ viết chính thống của nhà nước Rôma, trong đó đáng kể là “bản thông cáo về những quyết định của Xenát năm 186”, những tài liệu tiểu sử của Auguxtuxơ, nhất là bản khắc chứ trên tường đền thờ cổ Ancara (hiện nay thuộc thủ đô Thổ Nhĩ Kì), các bản khác trên đá, trên đồng.
Nhóm hai là những tài liệu chữ viết của các cá nhân. Đó là những bia, mộ chí, những bản chúc thư, văn bản giải phóng nô lệ, điều lệ của những hội tư nhân, trong số đó nổi tiếng nhất là tài liệu Burunitan tìm thấy ở Bắc Phi có liên quan tới lịch sử Rôma ở thế kỉ II. Người ta cũng đã tìm thấy nhiều tài liệu ghi trên giấy Papirút, chủ yếu nói về sự thống trị của Roma ở vùng Cận Đông. Trong khi khai quật thành phố Đura – Epprôpos trên sông Ophorat, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một số lượng lớn tài liệu ghi trên giấy Papirút có liên quan tới chính sách cai trị của Rôma ở Bắc Phi, Ai Cập. Vào năm 1947, khảo cổ học cũng phát hiện được vô số tài liệu chữ viết trong các hang động đọc bờ phía tây của biển chết (Từ Hải), các tài liệu này chủ yếu có nội dung tôn giáo và được viết bằng tiếng Do Thái cổ, một số được viết bằng tiếng Araneây và Hi Lạp cổ. Những chữ khắc trên các đồng tiền cổ Rôma cũng là một nguồn tài liệu quan trọng cho biết giá trị và năm đúc đồng tiền này đồng thời cũng giúp ta hiểu về quan hệ buôn bán giữa Rôma và các tỉnh.
– Tài liệu văn học
Đầu tiên phải kể đến là những truyền thuyết, thần thoại, những câu chuyện cổ tích, những lời cầu nguyện trong tế lễ, trong nghi thức chôn cất người quá cố. Đặc biệt là những cuốn lịch của các tăng lữ trong đó ghi chép khá kĩ những ngày, tháng làm việc và kiêng kị, một số có ghi tên cả những chấp chính quan đương nhiệm. Rất đáng tiếc đa số những cuốn sổ lịch này đã bị thiêu huỷ trong thời kì người Galia tấn công Rôma vào năm 390 TCN. Năm 126 TCN, tu sĩ M.Xevila đã phục hồi lại được trong một công trình đồ sộ gồm 8 tập (hiện nay chỉ còn lưu giữ lại được quá ít).
Vào những năm đầu Công nguyên, người Rôma bắt đầu soạn danh sách các Chấp chính quan và các tướng lĩnh Roma nổi tiếng. Danh sách này thường được khắc trên những bia đá (một số hiện được lưu giữ ở khu Capitoli). Từ giữa thế kỉ V TCN xuất hiện tài liệu văn bia khắc trên 12 bảng bằng đồng. Đó là luật 12 bảng của Rôma.
Các tác giả Hi Lạp cổ đã viết nhiều về Rôma, Herắc Mitilen (thế kỉ V TCN) đã viết về truyền thuyết thành lập thành Rôma. (Hiện nay ta biết được nhờ tác phẩm của Điodo, Plutac).
Các tác giả Roma cũng viết nhiều về lịch sử nước mình. Nhà thơ Ennhin đã viết trường ca về lịch sử Rôma từ khi thành lập đến cuối thế kỉ III TCN. Nhà thơ Vicktor (cuối thế kỉ III đầu thế kỉ II TCN) cũng viết một trường ca về lịch sử Roma. Từ khi thành lập cho đến hết chiến tranh Punic lần thứ I. Người đầu tiên viết các tác phẩm văn học bằng tiếng latinh là nhà hoạt động chính trị Catô (234 – 149 TCN) viết lịch sử Rôma từ khởi thuỷ. Tác phẩm của ông có tên “khởi đâu”, trong đó ngoài những tri thức lịch sử còn khá nhiều tri thức về nông nghiệp, kĩ thuật và nền kinh tế nông nghiệp cũng như những mối quan hệ kinh tế, xã hội của Rôma vào nửa đầu thế kỉ II TCN. Các sự kiện lịch sử Rôma từ thế kỉ III – II TCN, có thể tìm thấy trong các tác phẩm văn học, trong các hài kịch của Plapktơ, Terenxi, Luxili…
Các nhà sử học Hi Lạp, đặc biệt là Polibi (201 – 120 TCN) đã có bộ “Thông sử gồm 40 quyển ghi chép chi tiết về giai đoạn lịch sử Rôma từ năm 264 đến năm 146 TCN kể cả quan hệ của Rôma với các nước ở khu vực Địa Trung Hải. Viết về thời kì Cộng hòa, phải kể tới những tác phẩm “Bàn về nhà nước”, “Bàn về luật pháp” của Xixêrôn (106 – 43 TCN) – vừa là nhà hoạt động chính trị, vừa là một quan toà. Những tác phẩm của Xeda (100 – 44 TCN) “Những ghi chép về cuộc chiến tranh Galia”, “Ghi chép về cuộc nội chiến” cung cấp cho ta một khối lượng sự kiện phong phú về đời sống chính trị, về dân tộc học, phong tục tập quán…
Ngoài ra phải kể đến tác phẩm “lịch sử” của Xaliút Cripe (86 – 35 TCN). “Về bản chất các hiện vật” của Lucrét (khoảng năm 90 TCN), “Về sự thành lập thành Rôma” của Tit Livi (59 – 17 TCN), “Khảo cổ học Rôma” của Galicarnát, “Địa lí” của Xtrabôn, “Lịch sử” gồm 14 tập và “Sử biên niên” gồm 16 tập của Taxít (55 – 120), “Lịch sử cuộc chiến tranh Do Thái” của Iôxit Flavia (37 – 95) và tác phẩm của Plutac (46 – 126) viết về tiểu sử các nhà hoạt động chính trị của Hi Lạp, Rôma từ nhân vật huyền thoại sáng lập ra nhà nước Rôma đến Xeda.
Từ thế kỉ III, xuất hiện một nguồn sử liệu mới, đó là các tài liệu liên quan tới đạo Cơ đốc. Đáng kể là những tác phẩm, ghi chép của Terotulian (cuối thế kỉ II đầu thế kỉ III), “Lịch sử nhà thơ” của giáo chủ Kexaris viết bằng tiếng Hi Lạp, sau được dịch sang tiếng latinh.
2. Tình hình nghiên cứu
Vào những năm 60 của thế kỉ IV, Epprôpi bắt đầu đã có những chuyên khảo về lịch sử Roma. Những chuyên khảo này đã được dùng như các tài liệu giáo khoa trong các trường trung học ở Bidantium trong một thời gian dài. Tiếp đó cũng ở Bidantium, người ta bắt đầu soạn thảo những từ điển tra cứu về tên tuổi, các nhà hoạt động Rôma nổi tiếng ví như cuốn “Niên đại” của Xinela (thế kỉ IX) vào thế kỉ XII, trong đó trình bày chủ yếu về lịch sử các nhà nước và thành phố ở miền Bắc Italia. Trong các thế kỉ XIII – XIV, người ta bắt đầu thu thập hàng loạt những tác phẩm văn học, lịch sử, nghệ thuật của Rôma, biên dịch và xuất bản bằng nhiều thứ tiếng ở châu Âu. Ancôna Tririacô (thế kỉ XIV) và Brachtninhi (1380 – 1459) được coi là những người châu Âu đầu tiên có những bộ sưu tập về những tài liệu Rôma cổ (cả chữ viết và hiện vật). Năm 1440, lần đầu tiên, Lorenxô đã cho xuất bản “Bản gốc những chiếu chỉ của hoàng đế Cônxtantin”.
Từ cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI, hàng loạt các trường đại học ở Pháp, Anh, Đức, Balan, Tiệp bắt đầu quan tâm nghiên cứu lịch sử Hi Lạp – Rôma cổ, do đó tiếng Latinh Hi Lạp cũng như văn học, lịch sử Rôma đã trở thành môn học chính của các trường này.
Vào thế kỉ XVIII, các nhà khoa học Pháp đã tích cực góp phần nghiên cứu lịch sử Rôma. Năm 1681, Boxine xuất bản cuốn sách về lịch sử toàn thế giới trong đó ông đặc biệt chú ý về lịch sử Rôma. Đầu thế kỉ XVIII ở Pari xuất hiện tác phẩm nhiều tập “Lịch sử các hoàng đế và các nhà cầm quyền khác trong 6 thế kỉ đầu của lịch sử Cơ đốc giáo” của Lennhe đề Tillemon (1690 – 1738), Rollenna liên tiếp trong những năm từ 1739 đến 1749 đã cho xuất bản bộ sách nhiều tập về “Lịch sử Roma từ khi thành lập đến trận Actium”. Ngoài ra, lịch sử Rôma còn được nói tới trong các tác phẩm triết học, lịch sử của các nhà phục hưng Italia, các nhà văn Pháp Mongtexkiơ Vonte v.v… Cuối thế kỉ XVIII, ở Anh xuất hiện tác phẩm đồ sộ 7 tập của nhà sử học Edua – Giphon “Lịch sử suy vong của đế quốc Roma”. Nhờ ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp và tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp, người ta đã chú ý đến không chỉ tới lịch sử các nhân vật mà còn chú ý đến những nét đặc thù của từng dân tộc, chú ý đến việc phê phán tư liệu lịch sử… Người đầu tiên đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực này là nhà sử học Đan Mạch Geo – Nhibua (1776 – 1831), giáo sư trường đại học Bon, Béclin, tác giả của bộ “Lịch sử Roma”, gồm 3 tập (xuất bản trong những năm 1811 – 1832). Người kế tục xuất sắc GBO là Teodo – Mongien (1817 – 1903) và Karno Niche (1823 – 1880) với các tác phẩm đồ sộ “Lịch sử Rôma” (5 tập), “Pháp quyền nhà nước Rôma” (3 tập), “Luật hình sự Rôma”, “Lịch sử nghề đúc tiền Rôma”, “Lịch sử nước cộng hòa Rôma”…
Giữa thế kỉ XIX, xuất hiện hàng loạt các công trình nghiên cứu lịch sử Rôma của các nhà sử học Pháp. “Lịch sử chế độ nô lệ thời cổ đại” gồm 3 tập, xuất bản năm 1848 của Vallon (1812 – 1904), “Sơ lược lịch sử tôn giáo Rôma từ Auguxtuxơ đến Antonio”, “Xixêrôn và bè bạn của ông” của Buachio (1823 – 1908) “Xã hội cổ đại” (1864). “Chế độ lệ nông Rôma (1885) của Priuxches de Culangio (1830-1889).
Các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng quan tâm nghiên cứu lịch sử Roma trong các tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, “Chống Đuyrinh”, “Tư bản”, “Các xã hội tiền tư bản”. “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước”, “Người Giécman cổ đại”…
Đầu thế kỉ XX, công cuộc khai quật khảo cổ được xúc tiến mạnh mẽ ở Bắc Phi, Tiểu Á, Xiri, Medopotami, Italia… nhiều tài liệu, hiện vật quý được phát hiện. Những giáo trình khảo cổ được biên soạn, hàng vạn tài liệu cổ văn được công bố (ở Ai Cập đã cho xuất bản toàn bộ những tài liệu Papirit của thời Hi Lạp hóa và đế quốc Rôma…). Từ năm 1884 đến năm 1902 đa xuất bản tác phẩm “Lịch sử cổ đại” gồm 5 tập của giáo sư Maiera (1855 – 1930) mô tả tiến trình lịch sử của nhiều dân tộc, nhà nước ở vùng Tiểu Á, ven Địa Trung Hải, từ khi thành lập đến giữa thế kỉ IV TCN.
Các nhà sử học Italia cũng có nhiều đóng góp đáng kể. Ferrero với “Sự cường thịnh và sụp đổ của Roma” gồm 6 tập xuất bản liên tục trong những năm 1901 – 1902 “Lịch sử Roma vào 5 thế kỉ đầu” của Paixo gồm 5 tập (xuất bản từ 1913 đến 1930), 50 năm đầu của thế kỉ XX xuất hiện nhiều tác phẩm của các sử gia tư sản, kể cả các sử gia phát xít Đức. “Lịch sử kinh tế xã hội của đế quốc Rôma” của Rôxtôxép (năm 1926), “Các dân tộc và văn minh” (1927), “Lịch sử cổ đại” (trong đó lịch sử Roma gồm 4 tập, 6 cuốn) . của nhiều tác giả nổi tiếng như Payxơ, Ôm), Baie…
Ở Mỹ từ năm 1933 đến năm 1938 đã xuất bản hàng loạt công trình lịch sử Rôma, dưới sự chủ biên của giáo sư T.Francô “Lịch sử kinh tế Roma cổ đại. Hệ thống nô lệ ở Hi Lạp và Rôma cổ đại” của một kiểu dân Đức – Vexterman – xuất bản năm 1955.
Các nhà sử học Nga cũng có rất nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu lịch sử Roma. Năm 1512, ở Nga đã xuất bản tác phẩm “Đại biên niên” trong đó chứa đựng một khối lượng tài liệu về các quốc gia cổ. Năm 1685, ở Matxcova đã thiết lập Viện hàn lâm Xlave – Hi Lạp – Latinh, do đó công việc tập hợp, biên dịch các tài liệu cổ tiếng Hi Lạp, Latinh sang tiếng Nga được đẩy mạnh.
Các nhà dân chủ cách mạng Nga Biêlinxki, Đobroliubop….. cũng nghiên cứu về lịch sử Rôma. Từ những năm 60 của thế kỉ XIX, trong giới sử học Nga đã nổ ra cuộc tranh luận về quan hệ ruộng đất ở Roma Năm 1861, trường Đại học Tổng hợp Matxcova đã xuất bản công trình của PM. Lêônchép, của P.G. Vixnograd đã thừa nhận sự xuất hiện quan hệ lệ nông là một hiện tượng xã hội. Các nhà sử học Nga cũng hết sức quan tâm tới sự phát triển và ý nghĩa của đế quốc Rôma. Giáo sư M.P. Drago Manop (1841 – 1895) đã cho xuất bản “Về ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của đế quốc Rôma” (năm 1869). Sau Cách mạng tháng Mười, việc nghiên cứu lịch sử Roma được đẩy mạnh dưới ánh sáng của các quan điểm duy vật lịch sử. Từ những năm 20 của thế kỉ XX xuất hiện công trình của XI. Kovalép, X.V. Xecgheép. Từ những năm 30, xuất hiện nhiều công trình có tính chất tổng hợp về lịch sử Roma “Lịch sử xã hội cổ đại” (1936) của Kovalép “Khái lược lịch sử Rôma cổ đại” (1938) của Xecgheép, “Tuyển tập các cuộc khởi nghĩa nô lệ thế kỉ II, I TCN” (1934) của X.A. Giebelep “Khởi nghĩa Xpactacuxe” (1936) của A.V. Mixulin. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, các giáo trình đại học, các công trình về lịch sử Roma ngày một nhiều “Lịch sử Rôma cổ đại” của Maskin, “Lịch sử Rôma” của Kovalép. “Nguồn gốc của các nền văn hóa Cơ đốc giáo” (1946) và “Roma và Cơ đốc giáo khởi thủy” (1954) của R.I. Uvippe ; “Khái lược về kinh tế nông nghiệp ở Italia cổ đại” và “Đời sống Rôma cổ đại” (1964). “Lịch sử Roma cổ đại” (1971) của giáo sư AG. Boksanhin.