Nhật Bản 1929 – 1939
1. Khủng hoảng kinh tế ở Nhật. Cuộc chiến tranh xâm lược vùng Đông Bắc Trung Quốc
Mùa xuân 1927, ở Nhật Bản đã xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của một cuộc khủng hoảng kinh tế, biểu hiện bằng cuộc khủng hoảng tài chính. Đến năm 1929, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mĩ dẫn đến đại suy thoải ở phương Tây đã giảng một đòn nặng nề vào nền kinh tế Nhật Bản. Khủng hoảng xảy ra trầm trọng nhất trong nông nghiệp (vì nông nghiệp Nhật phụ thuộc vào thị trường ngoài nước). Việc xuất khẩu tơ sống trước đây chiếm gần 45% số hàng xuất cảng của Nhật, nay sụt xuống tới 84%. Giá gạo năm 1930 so với 1929 hạ xuống một nửa. Mậu dịch đối ngoại năm 1930 so với 1925 giảm 30%, năm 1931 so với 1930 lại giảm 20% và nam 1933 lại càng gay gắt. Nói chung thị trường nước ngoài của Nhật bị thu hẹp tới mức chưa từng có. Sản xuất công nghiệp nặng cũng sụt nhanh chóng: năm 1930 sản lượng gang giản xuống 30%, thép giảm 47%.
Thị trường trong nước cũng bị thu hẹp vì sự bắn cùng hóa nhân dân lao động. Chính phủ Hamaguxi (cấm quyền từ năm 1927) đã thi hành chế độ tiết kiệm nghiêm ngặt bằng việc giảm ngân sách và hạ lương công nhân viên chức. Vào đầu năm 1930, Nhật có 1.500.000 người thất nghiệp; giữa năm 1931 số người thất nghiệp lên tới 2.500.000 và cuối năm đó lên tới 3 triệu người.
Cuộc khủng hoảng gây nên những hậu quả xã hội tai hại. Mẫu thuẫn xã hội trở nên gay gắt. Năm 1929 có 276 cuộc bãi công nổ ra, năm 1930 có 907 và năm 1931 có 998 cuộc bãi công.
Cuộc khủng hoàng đã đẩy mạnh thêm quá trình tập trung sản xuất. Quá trình tập trung ở Nhật mang đặc điểm khác các nước TBCN ở chỗ nó xuất hiện các tổ hợp tài chính do các thế lực phong kiến kiểm soát (gọi là Daibatxư). Trong đó, Mitxubisi, Mitxưi và Sumitômô là hùng mạnh nhất, chúng đã kiểm soát các công ti trong lĩnh vực tài chính, khai khoảng, công nghiệp và các lĩnh vực hiện đại khác của nền kinh tế.
Thị trường Trung Quốc rộng lớn luôn luôn là đối tượng mà giới tài phiệt Nhật muốn độc chiếm từ lâu, đặc biệt là vùng Đông Bắc, nơi tập trung 77% tổng số vốn của Nhật Bản vào Trung Quốc. Ngày 18-9-1931, Nhật tạo ra “Sự kiện đường sắt Nam Mãn châu và lấy cớ đó để đánh chiếm Đông Bắc Trung Quốc. Sau khi chiếm vùng này, đế quốc Nhật đã dựng ra cái gọi là “nước Mãn Châu” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu, biến miền Đông Bắc Trung Quốc thành thuộc địa và bàn đạp của những cuộc phiêu lưu quân sự mới.
2. Chính sách đối nội phản động và chính sách gây chiến xâm lược của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản trong những năm 1934 – 1939
Chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản ngay từ khi mới ra đời đã mang săn tính chất quân phiệt và hiếu chiến. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra, trong xu thế chung là phát xít hóa bộ máy thống trị ở những nước TBCN thiếu nguyên liệu và thiếu thị trường trên thế giới thì nước Nhật cũng tăng cường chính sách quân sự hóa đất nước, gây chiến tranh xâm lược để chiếm thị trường. Bọn quân phiệt nắm giữ mọi quyền lực chủ chốt, chi phối mọi mặt của đời sống xã hội Nhật Bản. Tuy nhiên, trong nội bộ giới quân phiệt Nhật lại mâu thuẫn nhau, chủ yếu là vấn đề cách thức tiến hành chiến tranh xâm lược. Phái “Tân hưng” (“sỉ quan trẻ”, được bọn tài phiệt mới ủng hộ) chủ trương lật đổ chính phủ lập hiến, thành lập chính quyền độc tài quân phiệt mạnh và khẩn trương tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Còn phải ‘Thống chế” (“sỉ quan già”, được bọn tài phiệt cũ ủng hộ) thì muốn dùng bộ máy nhà nước sẵn có tiến hành chiến tranh thận trọng và có chuẩn bị. Từ năm 1932 đến 1935, một cuộc xung đột gay gắt diễn ra giữa hai phải này.
Ngày 26-2-1936, nhóm “sĩ quan trẻ” đã tiến hành cuộc đảo chính lặt đổ chính phủ Ôcađa để lập chính quyền độc tài quân phiệt phát xít ở Nhật. Cuộc đảo chính không được đa số quân đội ủng hộ và đông đảo nhân dân Tôkiô cùng nhiều nơi khác đều phản đối cuộc nổi loạn này. Sau cuộc đảo chính không thành này, các chính quyền Nhật Bản đã tăng cường tính chất phát xít mà phải “sỉ quan trẻ” đã từng đòi hỏi.
Tháng 2-1937, tướng Haiaxi lập nội các mới. Ngày 31-3, tuyên bố giải tản quốc hội. Cũng trong thời kì này, phong trào thành lập Mặt trận nhân dân đã phát triển rộng rãi; phong trào tập hợp được giai cấp vô sản, các tổ chức nông dân, giới trí thức và cả một bộ phận trong giai cấp tư sản. Cuộc bầu cử nghị viện năm 1937 là một bằng chứng giản tiếp nói lên sức mạnh của phong trào đối lập phản đối chiến tranh và chủ nghĩa phát xít Đặc biệt, những người xã hội-dân chủ Nhật Bản đã tranh cử dưới khẩu hiệu chống chiến tranh, do đó họ chiếm được 37 ghế nghị sĩ.
Sau cuộc tuyển cử, tháng 6-1937 công tước Cônôê – Chủ tịch thượng nghị viện giữ chức thủ tướng Chính phủ Cônôe đánh dấu sự hòa hoàn tạm thời giữa các phái đối lập trên cơ sở thừa nhận cương lĩnh chiến tranh và đảm bảo đặc quyền của nghị viện.
Ngày 4-1-1939, chính phủ Cônôẽ từ chức. Nội các mới do Hiranuma cấm đấu ra đời. Mặc dù ra tuyên bố rằng chính sách của mình không phải dân chủ mà cũng chẳng phải phát xít” nhưng thực chất nội các này đã thi hành chính sách phản động hơn, hiếu chiến hơn. Chính quyền đã cho thi hành đạo luật tổng động viên toàn quốc, tăng cường kiểm soát kinh tế bằng cách lập “đội cảnh sát kinh tế, thiết lập chế độ kiểm duyệt gắt gao để chống lại mọi biểu hiện chống chính phủ. Chính quyền Hiranuma tăng cường đàn áp phong trào tiến bộ, và cho rằng phong trào Mặt trận nhân dân là nguy hiểm nhất nên cần phải đàn áp thẳng tay. Trong chính sách đối ngoại, chính phủ Hiranuma coi nhiệm vụ phát động chiến tranh chống các cường quốc Liên Xô, Anh, Pháp, Mi là mục đích của chính mình.
Trước khi nổ ra Chiến tranh thế giới thứ hai, giới quân phiệt Nhật đã mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Trung Quốc, tiến hành xâm lấn và khiêu khích Mông Cổ, Liên Xô nhiều lần. Ngày 7-11-1947, chủ nghĩa quân phiệt Nhật bất ngờ tấn công căn cứ hải quân Mĩ ở cảng Trân Châu (Pearl Harbor), gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình Dương