Về mặt xã hội, trong thời kì đầu, đạo Hỏi chống những tập quán của xã hội nguyên thuỷ như quan niệm hẹp hòi về thị tộc, bộ lạc, tập quán nợ máu phải trả bằng máu, báo thù có tính chất thị tộc, thờ thần tượng, đa thần giáo. Đạo Hỗi thừa nhận chế độ nô lệ, chế độ một chồng nhiều vợ, hạ thấp vai trò của phụ nữ, chủ trương bảo vệ việc buôn bán và chế độ tư hữu tài sản. Tuy vậy, đạo Hồi kêu gọi mọi người đoàn kết, không chém giết lẫn nhau, các bộ tộc Ả Rập coi nhau như anh em, họ hào phải hết sức giúp đỡ người nghèo, nhất là bà goá và trẻ mồ côi.
Đạo Hồi còn chủ trương phải phát động chiến tranh để bảo vệ và phát triển tôn giáo và tuyên truyền rằng các tín đồ muốn linh hồn được cứu vớt thì phải tích cực tham gia chiến đấu. Những kẻ tử trận được coi là những người chết vì đạo, do đó linh hồn của họ sẽ được lên thiên đường. Vợ con của những người tử nạn trong các cuộc chiến tranh sẽ được cứu giúp. Để có vũ người A Rập tham gia tích cực hơn nữa vào các cuộc chiến tranh xâm lược, đạo Hồi còn hứa hẹn với họ một phần thưởng thiết thực hơn so với sự cứu vớt về linh hồn, đó là các chiến lợi phẩm mà nguyên tắc phân chia được quy định rõ ràng : 1/5 thuộc về tiên tri, thị tộc của tiên tri và dùng để chia cho bà goá và trẻ mồ côi, còn 4/5 thì chia cho quân đội, trong đó kị binh được 3/5, bộ binh 1/5.
Về nghĩa vụ của tin đồ, đạo Hồi quy định các tín đồ phải thực hiện đầy đủ 5 bổn phận “cốt đạo” : thấm nhuần tín ngưỡng, cầu nguyện, thực hiện ăn chay, phân phát của bố thí, hành hương. Cụ thể là :
Kinh thánh của đạo Hỏi là kinh Coran (nghĩa là “đọc”) trong đó ghi lại những chủ trương về tôn giáo của Mohamét mà theo tín đồ đạo Hồi, đó là những lời nói thể hiện ý chúa, một bản tổng hợp mọi tri thức khoa học và mọi nguyên tắc pháp luật và đạo đức. Với tín đồ Hồi giáo, kinh Coran là cuốn sách thánh, vì thế không thể do một người nào sáng tạo ra, mà đã tồn tại từ trước. Bản gốc của sách do đáng Ala giữ dưới ngai vàng của Ngài. Ngài truyền từng phần một dưới dạng những lời khải thị cho sứ giả của mình là Mohamét thông qua thiên thần Gabrien. Những lời khai thị của thánh Ala sau được Môhamét truyền lại, các calipha cho sưu tầm, ghi chép lại thành cuốn kinh Coran. Trong thời Mohamét còn sống không thấy một bộ sưu tập kinh Coran nào. Những bản thảo lâu đời nhất có niên đại đều thuộc vào thế kỉ VII, tức là phải viết sau vài chục năm khi Mohamét chết (632). Sự xuất hiện của kinh Coran gắn liền với quá trình hình thành để quốc Ả Rập.
Sau khi Mohamét chết, Abu Bekrơ kế vị, Calipha đầu tiên của đế quốc A Rập, ra lệnh cho Zaib Ibn Thabit – người thư kí giỏi nhất của Môhamét, tìm kiếm những đoạn chép tay, những gì còn giữ lại trong trí nhớ của các tín đồ thân cận Mohamét, để tập hợp thành một cuốn kinh. Đến thời Calipha Ôxman việc biên soạn kinh Coran lại được tiến hành do công sức của nhiều người.
Kinh Coran chia làm 114 chương. Mỗi chương (sur) bao gồm những bài thơ (ayát). Chữ “ayát” có nghĩa là “điều lành”, “điều kì diệu”. Các chương đều khác nhau về khuôn khổ và được sắp xếp không theo thứ tự thời gian và nội dung. Nghiên cứu kinh Coran, các nhà bác học nói chung không cho nó là một mở những chuyện nhảm nhí, bịa đặt. Nó chứa đựng những tư liệu dân tộc học dù là nghèo nàn về cuộc sống, văn hoá và về phong tục tập quán của người Ả Rập. Những tập quán cổ xưa, những giai thoại về cuộc đấu tranh chống đa thần giáo, chống những tàn dư của chế độ cộng đồng gia trưởng lỗi thời… được miêu tả trong quyển sách này là rất bổ ích. Từ văn bản của kinh Coran, một di sản văn học cổ, các nhà ngôn ngữ học đã khai thác được nhiều tư liệu bổ ích cho việc nghiên cứu thành phần từ vựng và ngữ pháp của tiếng Ả Rập. Nhìn chung, kinh Coran chứa đựng rất ít từ liệu lịch sử. Trong kinh Coran có những chỉ dẫn về việc quảng cáo thương nghiệp, quan hệ gia đình, cưới xin, dẫn ra một số những quy định về đạo đức đối với người theo đạo Hồi. Nhưng chủ để chính của nó là khẳng định các nguyên tắc tôn giáo, những quy định về nghĩa vụ của các tín đồ đối với đức thánh Ala.
Trong thời kì đầu, ở A Rập chưa có sự phân biệt giữa tu sĩ và tín đồ, giữa giáo hội và tổ chức nhà nước, giữa quy chế tôn giáo và pháp luật. Đạo Hỏi trong thời gian mới ra đời có vai trò rất quan trọng trong việc xác lập quyền thống trị của giai cấp quý tộc và việc thành lập nhà nước Ả Rập thống nhất. Như vậy, khi mới ra đời, đạo Hồi là tôn giáo của giai đoạn quá độ từ xã hội nguyên thuỷ sang xã hội có giai cấp ở Ả Rập. Về sau, khi A Rập chuyển sang chế độ phong kiến, đạo Hồi cũng trở thành tôn giáo bảo vệ chế độ phong kiến, là công cụ mê hoặc quần chúng nhân dân, khiến họ phải phục tùng, nhẫn nhục và an phận. Đến giai đoạn này, tuy các Calipha vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là thủ lĩnh tôn giáo, nhưng tầng lớp tu sĩ đã tách ra thành một tầng lớp có nhiều đặc quyền, tuy vẫn lấy giáo lí của kinh Coran làm nguyên tắc, nhưng pháp luật của nhà nước đã tách ra thành một lĩnh vực riêng. Đồng thời, thái độ của Hồi giáo đối với các tôn giáo khác đến giai đoạn này cũng có sự thay đổi. Nếu như trước kia đối với đạo Do Thái và đạo Cơ đốc, đạo Hồi còn có thái độ khoan dung thì nay tuyệt nhiên không nhân nhượng nữa. Sự bành trướng của đạo Hồi đi liền với quá trình hình thành của đế quốc Ả Rập.
Lê Anh là tác giả nổi bật của website Sử Sách, chuyên viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam. Với phong cách viết sâu sắc và nghiên cứu kỹ lưỡng, Lê Anh mang đến những bài viết chất lượng, giúp độc giả hiểu rõ hơn về các sự kiện lịch sử quan trọng và di sản văn hóa phong phú của đất nước.