Thời kì đế chế (Từ thế kỉ I đến V)

1. Thời kỳ cực thịnh của chế độ chiếm nô Rôma Thời đại Ôguxtuxơ (thế kỷ I, II) 

Trong các thế kỉ I. II, trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, an ninh xã hội và văn hóa, chế độ chiếm nô Rôma đạt tới điểm đỉnh của sự phát triển tạo nên thời kì mà người Roma thường tự hào “thời kì hoàng kim” của họ. 

– Tình hình chính trị 

+ Sau khi đánh bại Antôniuxơ (năm 30 TCN), Octaviuxe trở thành kế thống trị duy nhất ở Rôma. Tuy không tự xưng là Hoàng đế, nhưng trong thực tế, Octaviuxơ đã nắm trong tay những quyền hạn của một ông Hoàng thực thụ : tổng chỉ huy quân sự (Imperator), quan chấp chính và quan bảo dân vĩnh viễn, tổng giáo chủ toàn Italia… Viện nguyên lão còn suy tôn y là “quốc phụ” (người cha của đất nước) và tặng y danh hiệu Oguxtuxơ (đáng cao cả, tôn kính). Không dám coi thường truyền thống Cộng hòa, chỉ coi mình là người số 1 trong danh sách công dân – Porinxép. Bởi thế, chế độ chính trị do Octaviuxơ thiết lập, trong lịch sử Rôma được gọi là chế độ Principat – chế độ nguyên thủ. 

Trong chế độ chính trị mới này, bên cạnh vai trò cá nhân rất được đề cao của Octaviuxơ, vai trò của Viện nguyên lao vẫn được coi trọng. Số nghị viên Viện nguyên lão bao gồm 600 người, thân tín của Octaviuxơ, nhiều chức năng của đại hội nhân dân được chuyển giao cho Viện nguyên lão : Đại hội nhân dân chỉ là hình thức. Chế độ Principát thực chất là chế độ quân chủ chuyên chế được che đậy khéo léo bởi chiếc áo khoác Cộng hòa. 

Thời kì Octaviuxo trị vì, cương vực của đế quốc Rôma đã mở rộng : phía đồng bắt đầu từ khu vực sông Ophơrất ; phía tây tới bờ Đại Tây Dương, phía nam xuống tận sa mạc Xahara, còn phía bắc vươn đến bờ sông Ranh và Đanuýp, tiếp giáp với những vùng đất của người Giécman. Thủ đô Rôma với nhiều cung điện, đền, miếu, rạp hát, các công trình công cộng được xây dựng công phu, nguy nga, tráng lệ đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của một đế quốc thống nhất, hùng cường. Octaviuxe là người đã thiết lập nên vương triều đầu tiên trong thời đế chế – Vương triều Giuliux Claudiux (Julius Claudius) tồn tại từ năm 27 TCN đến năm 68 sau CN. 

Năm 14, Octaviuxe qua đời, Viện nguyên lão đem tước vị và danh hiệu Ôguxtuxo trao cho Tiberiuxg) (14 – 37), nên quân chủ Rôma được củng cố thêm, vai trò cá nhân Tibêriuxơ, và vai trò của Viện nguyên lão được hết sức để cao. Tiberiuxơ tước bỏ dẫn chiếc áo khoác Cộng hòa. 

Sau Tiberiuxe là thời kì thống trị của Caligula (37 – 41). Caligula chủ trương xây dựng nền quân chủ ở Roma theo kiểu Ai Cập, bắt chước kiểu sinh hoạt ở cung đình Ai Cập, thậm chí còn lấy em gái mình làm vợ. Caligula đã cho xây dựng nhiều đền thờ thân Ixida của người Ai Cập ở Roma và tự xếp mình trong hàng ngũ các thần thánh. Caligula đã dùng bạo lực đàn áp tàn khốc mọi dư luận chống đối. Vì vậy, Caligula chỉ cầm quyền được 4 năm, năm 41, y bị chính các sĩ quan cận vệ của mình mưu sát. 

Sau khi Caligula chết, nền chính trị Rôma khủng hoảng, phe cánh duy trì nên Cộng hòa yêu cầu thiết lập lại trật tự Cộng hòa cũ, tuy nhiên cơ sở xã hội của nền Cộng hòa không còn nữa và quyền lực thực tế chi phối xã hội. Roma lại đang trong tay giới quý tộc quân sự. Những người này chủ trương tiếp tục chính sách của Octaviuxơ, do vậy đã chọn Claudiuxe, chú ruột Caligula làm nguyên thủ quốc gia (từ năm 41 đến năm 54). Nhờ sự giúp đỡ và những mưu kế của người vợ kế – Agoripina – Claudiuxo đã cải tổ và phát triển chế độ quân chủ, thiết lập một số cơ quan mới, hoàn thiện thêm bộ máy hành chính như lập ra vụ tài chính, nội chính, giám sát, chính pháp… Claudiuxơ còn thực hiện việc ban bố quyền công dân một cách rộng rãi và mở rộng cửa vào Viện nguyên lão cho quý tộc các tỉnh. Con đường liên kết tất cả giai cấp thống trị toàn Rôma bắt đầu mở ra. Mặt khác, Claudiuxơ tiếp tục ổn định và mở rộng lãnh thổ Roma, xâm lược và biến xứ Boritania (nước Anh ngày nay) thành một tỉnh của đế quốc, đánh chiếm những vùng đất ở phía nam hạ lưu Đanuýp, và vùng đất đai của vua Mitoriđất III xứ Bốipho thuộc Hắc Hải, ổn định tình hình Acmênia, chiếm toàn bộ Bắc Phi… Claudiuxơ cũng là người đầu tiên tiến hành ráo riết việc “Rôma hóa” các tỉnh và lập thêm nhiều vùng đất thực dần mới. 

Năm 54, Agripina (Agrippina) – đương kim hoàng hậu – đã ép Claudiuxe thừa nhận Nêrô – con riêng của bà – là con chính thức được thừa kế và truyền ngôi. Tiếp đó, Agripina đã đầu độc Claudiuxo và đưa con trai Nêrô – lúc đó mới 18 tuổi – lên làm nguyên thủ quốc gia. Trong 5 năm đầu, quyền nhiếp chính thuộc về Hoàng thái hậu Agoripina và thể chế nhà nước quân chủ chuyên chế tiếp tục được duy trì. Từ năm thứ 6 trở đi, với bản chất tàn bạo, thích ăn chơi, tự do, trác táng(1), Nero đã lần lượt giết mẹ, đầu độc anh trai, giết vợ, giết cả thầy dạy học của mình – nhà triết học Xénecơ – và cũng đã thẳng tay dùng bạo lực trấn áp, giết hại bất kì ai mà y nghi ngờ là có những hành vi chống đối. Nêrô trở thành bạo chúa của bạo chúa trong lịch sử Rôma. Người ta cho rằng chính Nero là thủ phạm gây ra vụ cháy khủng khiếp ở Roma năm 64 để tiếp đó là vụ tàn sát đẫm máu các tín đồ Kitô giáo”, Nero còn tự ý tuyên bố cho Hi Lạp tự trị và phung phí ngân quý của nhà nước. Do vậy, thời Nêrô trị vì, có rất nhiều cuộc đấu tranh, khởi nghĩa (khởi nghĩa ở Boritania. Tiểu Á, Bắc Phi…). Trước sức ép của dư luận, cuối cùng Viện nguyên lão cũng phải tuyên bố Nero là kẻ thù của nhân dân, của đất nước. Nêrô phải bỏ trốn và sau đó phải tự sát. 

Nêrô chết, vương triều Gluliux Claudiux do Octaviuxơ thiết lập chấm đới. Thời kì thống trị độc tôn của quý tộc chủ nô Rôma cũng kết thúc mở ra thời kì mà giai cấp chủ nô ở các tỉnh bắt đầu tham gia vào công việc quản lí, điều hành đế chế Rôma. 

+ Vương triều Phlaviuxơ (69-96) được thiết lập, chế độ chiếm nô Rôma lại tiếp tục được củng cố. Việc “Rôma hóa” được xúc tiến mạnh mẽ, vai trò và quyền lực của quý tộc chủ nô các tỉnh được tăng cường. Số nghị viên Viện nguyên lão là quý tộc các tỉnh đã chiếm tới 40%. Các nguyên thủ – mà thực chất là các hoàng đế – đều thực hiện những chính sách căn bản giống nhau nhằm củng cố và phát triển đế quốc chiếm nó. Vương triều Phlaviuxơ trải qua 3 thời kì trị vì của 3 nguyên thủ – Hoàng đế : 

Phlaviuxo Vexpadianuxo (67-79) 

Phlaviuxo Tituxo (79-81) 

Phlaviuxo Domitianuxo (81-96) 

+ Từ năm 96 đến năm 192, Rôma dưới quyền thống trị của các hoàng đế thuộc vương triều thứ 3 – Vương triều Antôniuxe. 

Nét nổi bật của tình hình chính trị Rôma thời kì lịch sử này là chế độ chiếm nó vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển (mặc dù những biểu hiện của sự khủng hoảng đã bộc lộ). Chế độ nguyên thủ vẫn được duy trì, nhưng chiếc áo khoác Cộng hòa hầu như đã bị vứt bỏ, với những quyền lực vô biên dành cho nguyên thủ. Vai trò của Viện nguyên lão và quân đội được đặc biệt để cao, việc thiết lập hoặc bài miễn các hoàng đế hoàn toàn nằm trong tay Viện nguyên lão và những kẻ chỉ huy quân đội. Độc quyền nắm giữ ngôi hoàng đế của quý tộc Roma chấm dứt. Các hoàng đế là người của các tỉnh đã xuất hiện, và chế độ truyền ngôi theo lối cha truyền con nối cũng chấm dứt. 

Vương triều Antôniuxơ (96 – 192) trải qua 6 đời Hoàng đế khác nhau. 

– Nécva (96-98).

– Trajaruxơ (98 – 117), là người có nguồn gốc ở Tây Ban Nha, là hoàng để Rôma đầu tiên không phải là người Italia.

– Hadrianuxo (117 – 138) : người Tây Ban Nha

– Antôniuxơ (138 – 161) : người Italia. 

Thời kì Antôniuxơ cầm quyền, đế quốc chiếm nô Rôma lại đạt tới đỉnh vinh quang cuối cùng của nó. Antôniuxơ thiết lập “Hội đồng của nguyên thủ” (hay còn gọi là “Hội đồng những người bạn”) gồm những người có tài năng, uy tín trong Viện nguyên lao và chỉ huy quân đội. Antôniuxơ cũng chú ý xây dựng luật pháp, quân đội, cải tiến kĩ thuật quân sự, mở rộng quan hệ ngoại giao và duy trì các lễ nghỉ, tôn giáo cổ truyền.

– Oreliuxơ (161 – 180) : người Tây Ban Nha, đồng thời cũng là một nhà triết học, một học giả uyên thâm. 

– Commôđuxơ (180 – 192), con trai Oreliuxơ, đây là trường hợp kế ngôi duy nhất trong triều Antôniuxơ. Từ sau năm 192, chế độ chiếm nô Rôma bắt đầu khủng hoảng nghiêm trọng. 

– Tình hình kinh tế 

+ Sự phát triển của thủ công nghiệp, thương nghiệp trước hết phải kể tới những tiến bộ về mặt kỹ thuật trong sản xuất thủ công nghiệp. Đó là những tiến bộ trong kĩ thuật chế tác kim khí, sự phát minh ra cối xay nước, liềm cong để gặt lúa, việc hoàn thiện máy ép nho bằng gỗ, những cải tiến trong kĩ thuật chế tạo công cụ sản xuất… Những tiến bộ đáng kể này đã thúc đẩy kinh tế thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự phân công chuyên môn hóa trong sản xuất thủ công đã trở nên khá phổ biến trên toàn đế quốc, nhất là ở Bắc Italia và Campania. Đồ gốm về hoa ở Acrotium, đèn thấp ở Mutina… Nghề dệt có sự chuyên môn hóa cao độ, có người chuyên dệt, có người chuyên nhuộm màu… Những sản phẩm thủ công, nhất là hàng thủ công xa xỉ phục vụ lối sống vương giả được hết sức chú trọng, một số nghề thủ công phức tạp, đòi hỏi trình độ tinh xảo, khéo léo đã hình thành (ví như nghề sản xuất các mắt giả cho tượng, nghề sản xuất dụng cụ mổ xẻ…). Ngoài những xưởng sản xuất thủ công quy mô nhỏ và vừa của tư nhân, còn có những xưởng thủ công quy mô lớn của nhà nước chuyên khai thác kim loại, đá quý, sản xuất đồ gốm cao cấp, gạch ngói xây dựng… Những mặt hàng thủ công truyền thống vẫn tiếp tục chiếm ưu thế và phát triển mạnh mẽ nhất là nghề kim khí, sản xuất vũ khí, gốm, dệt, chế biến rượu, đầu ôliu, dệt thảm… Các xưởng thủ công của nhà nước hay tư nhân đều sử dụng sức lao động đồng đảo của nô lệ và dân tự do làm thuê. 

Theo đà phát triển của thủ công nghiệp, thương nghiệp và mậu dịch hàng hải cũng phát đạt. Rôma có quan hệ buôn bán rộng rãi với Aráp, Ấn Độ, Trung Hoa Thuyền buôn Rôma ngược dòng Đanuýp, sông Ranh, Vixtuyn đến tận vùng Bantich và bán đảo Xoăngđinavơ. Trên mặt biển Địa Trung Hải, thuyền bè Rôma đi lại nhộn nhịp. Những sản phẩm thủ công truyền thống của Rôma hầu như có mặt ở khắp Italia, khắp các tỉnh của đế quốc và sang tận các nước Phương Đông, Bắc Âu, Ban Tích.. Ngược lại, những sản phẩm của Phương Đông (hương liệu, gia vị, tơ lụa, đá quý…) cũng thường xuyên được các lái buôn Roma chuyển về khu vực Địa Trung Hải. Bên cạnh các thành phố cổ, nhiều thành thị với tư cách là những trung tâm thương mại được xây dựng ví như Lòngdinium (Luân Đôn ngày nay), Lúcđunum (Liống), Vindobora (Viên)… 

+ Thủ công nghiệp và thương nghiệp Rôma rất phát đạt, nhưng hoạt động kinh tế chủ đạo của Rôma trước sau vẫn là kinh tế nông nghiệp. Trong các Latiphundia, việc chuyên môn hóa cây trồng được xúc tiến mạnh mẽ. Nho, Ôliu vẫn tiếp tục giữ vai trò hàng đầu trong các cây trồng ở Roma. 

Văn minh Rôma là văn minh nông nghiệp nhưng nền nông nghiệp ấy không hoàn toàn mang tính chất của nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc mà gắn bó hữu cơ với thủ công nghiệp, với hoạt động thương mại. Số lượng lương thực mà các Latiphunđia tự sản xuất hầu như không đáng kể, tuyệt đại bộ phận lương thực nuôi sống xã hội Rôma được nhập từ nước ngoài. Latiphunđia chủ yếu cung cấp những sản phẩm cho hoạt động thủ công nghiệp, thương nghiệp trong khuôn khổ của nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ. Từ những năm cuối thế kỉ II, đầu thế kỉ III, một hiện tượng mới trong sản xuất nông nghiệp đã xuất hiện – dù chưa phải là phổ biến – Đó là một số ít Latiphunđia, trước đây vẫn trồng nho, Oliu, đã bắt đầu chuyển sang trồng cây lương thực, thậm chí một số chủ nô cũng đã chia nhỏ điền trang rộng lớn của mình thành những mảnh đất nhỏ, cùng với công cụ sản xuất, giao cho nô lệ tự sản xuất. Những mầm mống đầu tiên của một phương thức canh tác mới trong nông nghiệp đã xuất hiện, tạo những tiền để cho chế độ lệ nông ở giai đoạn sau hình thành, phát triển. 

2. Thời kỳ khủng hoảng, suy vong của đế quốc chiếm hữu nô lệ Rôma (thế kỷ III – thế kỷ V)

– Sự khủng hoảng của chế độ nô lệ 

Ngay từ cuối thế kỉ thứ II, chế độ nô lệ ở Rôma đã có những dấu hiệu khủng hoảng. Sang thế kỉ III, sự khủng hoảng này càng tỏ ra nghiêm trọng, sâu sắc hơn. 

Số lượng nô lệ ngày càng giảm sút, một mặt nguồn cung cấp nô lệ chủ yếu – nô lệ tù binh – ngày càng giảm đi vì những cuộc chiến tranh xâm lược mở rộng cương vực không diễn ra ô ạt như giai đoạn trước, biên giới của đế quốc đã vươn khá xa và hầu như đã vượt quá khả năng cai quản của Rôma. mặt khác sự bóc lột vô cùng tàn khốc của phương thức sản xuất chiếm nó đã làm mất khả năng lao động của một số khá đông nô lệ, tình trạng thiếu lực lượng sản xuất đã xảy ra đối với nền kinh tế toàn diện của Rôma. 

Chất lượng và khả năng lao động của nô lệ cũng giảm sút nghiêm trọng. Phương thức sản xuất chiếm nó không thể làm cho kĩ thuật canh tác tiến bộ lên, công cụ sản xuất vẫn thô kệch nặng nề (để nô lệ đỡ phá hỏng). Những phát minh cải tiến trong kĩ thuật sản xuất hầu như không được áp dụng. Bị bóc lột tàn tệ và bị cưỡng bức lao động, nô lệ đã tìm mọi cách phá hoại nền kinh tế chủ nô (làm hỏng công cụ sản xuất, làm ẩu, trốn tránh lao động, lãng phí khi gieo trông cũng như khi thu hoạch…). Do vậy năng suất lao động và hiệu quả lao động ngày càng giảm sút theo thời gian. 

Mặc dù không có những cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn của nô lệ như khởi nghĩa Xpactacuxơ, nhưng sự phản kháng của nô lệ vẫn thường xuyên xảy ra lúc ngấm ngầm lúc công khai đã làm cho tầng lớp chủ nô gặp nhiều khó khăn và góp phần làm suy giảm khả năng của chế độ nô lệ trong giai đoạn này. Sự khủng hoảng ngày một trầm trọng của chế độ nô lệ đã đặt giai cấp chủ nô Rôma trước một thực tế : Muốn tiếp tục tồn tại và phát triển, phải có sự nhìn nhận mới về chế độ nô lệ, trước mắt phải thay đổi cách đổi xử và hình thức bóc lột. Đây là công việc rất mới và rất khó đối với quý tộc chủ nô (vốn rất bảo thủ), do đó, việc giải quyết tình trạng khủng hoảng của chế độ nô lệ của Roma đã diễn ra nhưng hết sức chậm chạp, không đông đều, thậm chí còn tạo nên những bất đồng trong nội bộ giới quý tộc chủ nói. Các hoàng đế Roma đã cố gắng duy trì và phục hưng chế độ nô lệ. Hoàng để Claudiuxơ đã ban hành luật pháp cấm bắt nô lệ ốm đau lao động nặng, cấm giết chết những nô lệ đau yếu. Nêrô đã cấm đưa nô lệ ra đấu với dã thú. Antôniuxo ra sắc lệnh nếu không có lí do chính đáng, chủ nô không được giết chết nô lệ của mình… Những cố gắng của giai cấp chủ nô trong chừng mực nào đó đã góp phần vào việc cứu vãn sự sụp đổ của chế độ nỗ lệ. Bộ phận quý tộc chủ nổ ruộng đất đã tìm thấy lối thoát có hiệu quả hơn. Họ chia xẻ các Latiphundĩa rộng lớn kia thành những mảnh ruộng nhỏ rồi giao cho nô lệ tự cày cấy, thu hoạch, nộp cho chủ nô và được giữ một phần sản phẩm cho mình. Lối kinh doanh này ngày càng tỏ ra có hiệu quả đã lỗi kéo nhiều quý tộc khác thực hành phương thức bốc lột kiểu mới này. Thân phận và đời sống nô lệ có phân được cải thiện. Về hình thức, chế độ nô lệ được phục hưng nhưng trong thực tế, phương thức bóc lột mới này càng phổ biến thì chế độ nô lệ càng tiến gần đến ngưỡng cửa của sự diệt vong, nhường chỗ cho chế độ mới – chế độ lệ nông. 

– Sự tan rã của các Latiphundia. Sự ra đời và phát triển của chế độ lệ nông 

+ Từ giữa thế kỉ I trở đi, chế độ đại điền trang (Latiphundia) bắt đầu có những dấu hiệu khủng hoảng. Việc sử dụng sức lao động tập thể nô lệ đã trở nên không thích hợp, năng suất lao động ở các Latiphunđĩa suy giảm. Hiện tượng quý tộc chủ nô xé nhỏ các Latiphunđia thành nhiều mảnh, giao trực tiếp cho nô lệ hoặc những người không có ruộng đất canh tác ngày càng trở nên phổ biến. Các Latiphunđịa rộng lớn xưa kia ngày dần tan vỡ, nhường chỗ cho các điển ấp – Santút – (Saltus). Việc tan ra của các Latiphundia, không những thể hiện sự khủng hoảng suy vong của chế độ chiếm nô Rôma, mà còn kéo theo hàng loạt những thay đổi trong phương thức canh tác, phương thức bóc lột và tính chất của nền kinh tế. 

Nếu trước đây, đa số các Latiphunđia chuyên doanh trồng cây công nghiệp phục vụ cho kinh tế thủ công nghiệp và thương mại, thì bây giờ trong các Santút, người ta đã chuyển dẫn sang trồng cây lương thực. Phương thức bóc lột cũng thay đổi, chủ nổ đa không sử dụng sức lao động tập thể của nô lệ mà giao trực tiếp cho nô lệ những mảnh ruộng nhỏ cùng với công cụ sẵn xuất để nô lệ tự tiến hành nên tiểu sản xuất của họ, nộp sản phẩm cho chủ. Lối bóc lột mới này vừa có lợi cho chủ, vừa có lợi cho người sản xuất, kích thích hứng thú và khả năng lao động của họ, để tạo ra năng suất lao động cao. Thế là chế độ lệ nông xuất hiện như là một sự thích ứng với kiểu tóc lột mới này đã càng làm cho chế độ nô lệ bước dẫn tới ngưỡng cửa của sự tiêu vong. 

+ Chế độ lệ nông (Colonus) lúc mới đầu chỉ áp dụng ở những điền trang xa mà chủ nó không còn khả năng trực tiếp quản lí, sau đó dẫn phát triển và phổ biến khắp đế quốc. Chế độ lệ nông đã làm xuất hiện một lớp người mới trong xã hội Rôma. Đó là những người lệ nông. Khái niệm, thân phận và địa vị của những người lệ nông cũng có những thay đổi theo thời gian. Trong thời kì đầu, lệ nông là những người tự do (có thể là nông dân không có ruộng đất, hoặc nô lệ được giải phóng), họ có quyền công dân, có thể đảm nhận các chức vụ tôn giáo hoặc là thành viên của các hội đồng địa phương. Mối quan hệ giữa chủ nô có tư liệu sản xuất và lệ nông đơn thuần chỉ là mối quan hệ về kinh tế, canh tác ruộng của chủ, lệ nông phải nộp tô (khoảng từ 1/3 đến 1/2 thu hoạch), ngoài ra, mỗi năm lệ nông phải làm việc không công trên những lô đất của chủ từ 6 đến 12 ngày. Khi chế độ lệ nông thành phổ biến, khi chủ nô đem chia nhỏ Latiphunđĩa rồi giao cho nô lệ của mình tự canh tác, khái niệm, thân phận và địa vị lệ nông đã thay đổi. Từ thế kỉ III, lệ nông (dù có nguồn gốc xuất thân khác nhau) cũng đều là những người trực tiếp sản xuất và bị trói buộc vào ruộng đất của chủ, lệ thuộc vào chủ về thân phận, về tư liệu sản xuất. Sang các thế kỉ IV, V, địa vị của lệ nông lại càng sút kém. Năm 332, với sắc lệnh của hoàng đế Conxtantinuxe, thân phận lệ nông có tính chất thể tập, cha truyền con nối và hoàn toàn bị trói buộc vào ruộng đất. Trong trường hợp chữ nổ bán ruộng đất thì những người lệ nông (và gia đình) đang canh tác trên các lỗ ruộng ấy sẽ bị bán kèm theo. Về mặt xã hội, họ không còn là người tự do có quyền tư hữu, có quyền công dân. Họ cũng không được quyền kết hôn với người tự do và hôn nhân giữa họ với nhau, cũng không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, khác hẳn nô lệ, lệ nông là những người được tự do tương đối trong sản xuất và được hưởng một phần thu hoạch. Như vậy, lệ nông không phải là người tự do, nhưng cũng không còn là nô lệ, họ là “tiền thân của nông nô thời trung đại.

– Sự khủng hoảng về chính trị, sự thiết lập chế độ vương chủ 

Ngay từ cuối vương triều Antôniuxe (96 – 192), sự khủng hoảng về chính trị của đế quốc Roma đã bộc lộ rõ nét. Đầu thế kỉ III, sự phần hóa và tranh chấp trong nội bộ giai cấp chủ nô càng quyết liệt hơn. Bọn quý tộc địa phương và ở các tỉnh thuộc đế quốc cũng nổi dậy xưng hùng xưng bá với khuynh hướng tách dân khỏi sự lệ thuộc Rôma. Những vụ mưu sát, chính biến thường xuyên xảy ra, trong vòng 50 năm (từ năm 235 đến năm 284). Rôma đã thay đổi 28 đời Hoàng đế, có những Hoàng đế chỉ cầm quyền được 1, 2 năm như Galuxơ (251 – 253), Caruxơ (282 – 283). 

Cuối thế kỉ III, đầu thế kỉ IV, đế quốc Rôma bước vào thời hậu kì đế chế. Các Hoàng đế đã vứt bỏ hoàn toàn chiếc áo khoác Cộng hòa, ra sức tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế, tập trung cao độ mọi quyền lực vào tay mình, tước bỏ dẫn những quyền hạn của Viện nguyên lão đồng thời cũng bắt đầu sống theo kiểu sống xa hoa của các Hoàng đế Phương Đông. Năm 284, Đioletianuxơ lên ngôi Hoàng đế (284 – 305) đã trút bỏ danh hiệu nguyên thủ, tự xưng là Vương chủ nắm cả vương quyền và thần quyền. Một chế độ chính trị mới được thiết lập – Đó là Chế độ Vương chủ. Đioletianuxe còn cử Mácximianuxơ – một người bạn thân tín – làm hoàng đế thứ 2 để cùng trị vì đất nước. Tiếp đó, 2 người lại chọn Galero và Conxtantơ làm phó vương giúp việc cho họ. Năm 305, cả Đilletianuxơ và Mácximianuxơ đều thoái vị, việc tranh giành ngôi báu lại diễn ra. Kết quả Conxtantinuxơ trở thành Hoàng đế cầm quyền từ 306 đến năm 337. Năm 330, Conxtantinuxơ dời kinh đô từ Rôma sang Bidantium – thành phố thực dân cũn của người Hi Lạp ở eo Boxpho – đổi tên là thành Cônxtantinopolit(0). Đến năm 395, Hoàng để Teo đôdiuxo (379 – 395) đã chia đế quốc Rôma thành 2 phần và trao cho 2 người con cai quản. 

Accadiuxe – con trưởng – được cai quản nửa phía đông với thủ phủ là Conxtantinopolit.Horonluxỡ được cai quản nửa phía tây, thủ phủ là Rôma. 

Từ đó, đế quốc Rôma hùng cường xưa kia chính thức chia thành 2 nữa, thực chất là 2 nước : Tây bị đế quốc và Đông bộ đế quốc (về sau gọi là đế quốc Bidantium) với những vận mệnh lịch sử khác nhau. bo Roma 

– Sự xâm nhập của những người “man tộc” và sự diệt vong của đế quốc Tây bộ Rôma

Trong số những tộc người “da man” sống ở phía bắc đế quốc Rôma, người Giécman đóng vai trò quan trọng đối với sự diệt vong của đế quốc Tây bọ Rôma. Người Giécman bao gồm các bộ lạc Gốt (Tây Gốt và Đông Gối), các bộ lạc Vàngđan, Phorăng. Ăngglo Xácxông, Buốcgông… Các bộ lạc người Giécman đều đang sống ở giai đoạn cuối cùng của chế độ công xã nguyên thủy, và phân bố trên một vùng đất đai rộng lớn từ sông Ranh (ở phía tây) đến tận sống Vixtuyn (ở phía đông), từ Đanuýp (ở phía nam) đến biển Bantich (ở phía bắc). Ngay từ thế kỉ III, người Gối đã thiên đi xuống vùng Bancăng và người Phomăng đã tràn vào xứ Golo. Chính quyền Roma đã phải đồng ý cho họ định cư trên lãnh thổ của mình với tư cách là “bạn đồng minh” của Rôma. Đến giữa thế kỉ IV, khi bộ tộc Hung nô vượt biển Caxpiên đột nhập khu vực Đông – Nam Âu, các tộc người Giécman vội và di cư ồ ạt vào sâu trong lãnh thổ của đế quốc Roma đúng lúc đế quốc Rôma đang ở trong trạng thái khủng hoảng sâu sắc. Phong trào đại thiên di dân tộc của các tộc Giécman đã diễn ra liên tục trong 2 thế kỉ IV và V, đợt nọ nối tiếp đợt kia và liên tiếp xâm chiếm những vùng đất thuộc đế quốc Roma cai trị. Dân nghèo và nô lệ ở những vùng này, vốn quá cực khổ trong sự thống trị của Rôma, đã ủng hộ và coi những người Giécman như là những vị cứu tỉnh của họ. Người Tây Gối từ Bancăng tràn sang phía tây, đột nhập vào Italia. Thành Rôma cổ kính huy hoàng một thời bị vây hãm. Hơn 40.000 nô lệ Rôma đã chạy theo người Tây Gối. Năm 410, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Alarich, người Tây Gốt đã chiếm được thành Roma, thủ phủ của đế quốc Tay bo Roma. 

Trong khi người Tây Gốt đang làm chủ Italia, thì người Văngđàn từ lưu vực sông Ôde, băng qua xử Golo vượt dãy Pirène, xâm nhập Tây Ban Nha (Năm 408). Người Buốcgông cũng tràn xuống sống định cư ở vùng sông Rốn (Rhône) – thuộc Đông Nam Gold – và thiết lập ở đây một vương quốc của họ – Vương quốc Buốcgông – Năm 420, người Phorăng xâm nhập khu vực phía bắc xứ Golơ thành lập Vương quốc Phơăng ; khoảng năm 440, tộc người Angglo – Xácxông từ ven bờ Bắc Hải, vượt biển Măngsơ đổ bộ lên đảo Boritania (nước Anh ngày nay). 

Thế là sau những cuộc xâm nhập ổ ạt của các tộc người Giécman, trên lãnh thổ của đế quốc Rôma xưa kia, đã mọc lên nhiều vương quốc “man tộc” : 

Vương quốc Tây Gối (Vidigit) ở Tây Ban Nha

Vương quốc Vàngđan ở Bắc Phi 

Vương quốc Phorăng ở miền Bắc xứ Golo 

Vương quốc Buốcgông ở Đông Nam xứ Gole 

Vương quốc Ănggio Xácxông ở đảo Boritania 

Vương quốc Đông Gốt (Ôxtrôngốt) ở Italia 

Hoàng đế Rôma của đế quốc Tây bọ Roma hoàn toàn trở thành bù nhìn, chính quyền thực tế nằm trong tay các tướng lĩnh “man tộc”. Năm 476, thủ lĩnh quân sự của người Giécman là Odoacro đã lật đổ vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc Tay bộ Rômult Oguxtula, rồi tự xưng làm vua. Sự kiện này đã đánh dấu sự diệt vong của đế quốc Tây bộ Rôma.