Phong trào đấu tranh giành độc lập ở Đông Nam Á (Từ 1918 đến 1945)

1. Phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc từ năm 1918 đến năm 1945 

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc đều tăng cường chính sách khai thác và bóc lột thuộc địa để giải quyết những khó khăn trong nước. Tình hình đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến các nước Đông Nam Á. Đời sống nhân dân ngày càng cũng cực, mẫu thuẫn dân tộc với đế quốc càng thêm sâu sắc. 

Bắt đầu từ những năm 20, trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Đông Nam Á đã xuất hiện và phát triển một xu hướng mới: xu hướng vô sản. Giai cấp vô sản trẻ tuổi ở Đông Nam Á bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, mở ra triển vọng mới cho phong trào cách mạng ở Đông Nam Á: từ giải phóng dân tộc tiến lên giải phóng giai cấp. Diệu đó không chỉ phản ảnh ảnh hưởng to lớn của Cách mạng tháng Mười Nga đối với các dân tộc ở Đông Nam Á, mà còn cho thấy những biến đổi lớn lao đã diễn ra trong từng nước. Đó là sự hình thành và phát triển nên công nghiệp dân tộc, cùng với quá trình đó là sự trưởng thành của giai cấp công nhân cả về số lượng và ý thức giai cấp. Đồng thời quá trình bắn cùng hoá nông dẫn cùng diễn ra nhanh chóng… Tất cả những yếu tố đó đã làm bùng nổ một cao trào cách mạng mới, một xu hướng mới trong phong trào đấu tranh giành độc lập ở Đông Nam Á – xu hướng vô sản. Như vậy, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc Đông Nam Á đã tồn tại và phát triển song song hai xu hướng tư sản và vô sản. 

Trong giai đoạn này, đã xuất hiện hàng loạt các Đảng Cộng sản trong khu vực, mở đầu là sự thành lập Đảng Cộng sản Inđônêxia (5-1920). Đảng Cộng sản Inđônêxia đã nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị quan trọng và là đại diện chân chính cho những nguyện vọng của nhân dân Inđônêxia. 

Tiếp theo Inđônêxia, năm 1930 ở Động Nam Á đã xuất hiện Đảng Cộng sản ở Việt Nam (tháng 2), ở Mã Lai và Xiên (tháng 4i, ở Philippin (tháng 11). Ở Miến Điện, Đảng Cộng sản được thành lập năm 1939. Sự thành lập các Đảng Cộng sản là kết quả của quá trình phát triển phong trào yêu nước kết hợp với phong trào công nhân, tiếp nhận và vận dụng học thuyết Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của các nước Đông Nam Á. Đó cũng là hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 1929 làn cho mâu thuẫn vốn có giữa các dân tộc với chủ nghĩa đế quốc càng trở nên gay gắt. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động cùng những người yêu nước đã hướng về Đảng Cộng sản với nguyện vọng thiết tha là giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động một số nước đã vùng dậy đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Nổi bật là cuộc khởi nghĩa ở Xumatơra 1926 – 1927 và sự thành lập chính quyền Xô viết ở Nghệ-Tĩnh Mạc dù bị thất bại nhưng những cuộc nổi dậy đó chính là sự xuất hiện trên vũ đài chính trị những cuộc đấu tranh yêu nước mang màu sắc vỏ sản, diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Như vậy, giai cấp công nhân dù mới ra đời cũng đã tham gia vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. 

Trong những năm 20 và 30, phong trào dân tộc tư sản đã có những bước tiến rõ rệt so với những năm đầu thế kỉ. Nếu như trước đây, những hoạt động chính trị chỉ nhằm mục đích “khai trí để chấn hưng quốc gia thì đến nay mục tiêu giành độc lập được đề xuất rõ ràng; đòi quyền tự chủ về chính trị, quyền tự do trong kinh doanh, quyền dùng tiếng “mẹ đẻ” trong giáo dục… Nếu như trước đây mới xuất hiện các học hội hay nhóm phải mà vai trò quan trọng thuộc về những người cấp tiến trong sỉ phu phong kiến thì đến giai đoạn này đã hình thành các chính đáng có tôn chỉ mục đích rõ ràng và có ảnh hưởng xã hội rộng lớn 

Lực lượng đóng vai trò nổi bật trong phong trào dân tộc tư sản thời kì này là tầng lớp trí thức. Họ là học sinh, sinh viên, các nhà kĩ thuật, viên chức… tiếp thu ảnh hưởng văn hóa nước ngoài, từ tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp đến chế độ cộng hòa của Hợp chủng quốc Hoa Kì, từ “chủ nghĩa Tam dán” của Tôn Trung Sơn đến học thuyết “bất bạo động” của Gangđi. Họ trở thành bộ phận cấp tiến trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản, là ngòi nổ trong những cuộc đấu tranh lớn ở Đông Nam Á. 

Những tổ chức sinh viên ở Miến Điện đã dấy lên những cuộc đấu tranh đòi cải cách quy chế đại học, đòi tự trị, dẫn đến “phong trào Thakin” (có nghĩa là những người chủ đất nước) trong những năm 30. Tổ chức “Đại hội toàn Mã Lai” từ đầu thế kỉ đòi cải cách Hồi giáo và dùng tiếng Mã Lai trong nhà trường, phát triển thành phong trào đấu tranh chống thực dân Anh đòi tự trị. Ở Inđônêxia, nam 1927 Đảng Dân tộc do Xucácnô đứng đầu được thành lập. Trải qua nhiều năm tháng, đến cuối năm 1939, Xucichỗ đã tổ chức Đại hội nhân dân Inđônêxia bao gồm 90 đảng phái và tổ chức chính trị biểu thị sự thống nhất dân tộc, thông qua nghị quyết về ngôn ngừ (Bahasa Inđônêxia), về quốc kì (đỏ-trắng), vẽ quốc ca (Inđồnexia Raya). Ý chỉ về cuộc đấu tranh cho một quốc gia Inđônêxia thống nhất và độc lập đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh trong toàn dân ở giai đoạn tiếp theo. 

Hai phong trào tư sản và vô sản cùng tồn tại ở Đông Nam Á có nhiều điểm khác biệt về ý thức hệ, về mục tiêu cuối cùng. Nhưng đứng trước mục tiêu chung là độc lập dân tộc nên cả hai phong trào đã tồn tại song song, có những lúc kết hợp với nhau trong một chừng mực nhất định. Bởi lẽ đối với nhân dân Đông Nam Á, kẻ thù lớn nhất là chủ nghĩa đế quốc, không một lực lượng cứu nước nào có thể đứng riêng lẻ hoặc chống đối lẫn nhau. Điều đó đã tạo nên những tiến để khách quan cho sự thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn sau.

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã đưa lịch sử Đông Nam Á bước sang giai đoạn mới. 

2. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á trong Chiến tranh thế giới thứ hai 

Năm 1940, phát xít Nhật tràn vào Đông Nam Á và cũng từ đây cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á chỉa mũi nhọn vào chủ nghĩa phát xít Nhật. 

Do cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật đã trở thành nội dung chính của phong trào giải phóng dân tộc lúc này, đồng thời để hòa nhập với phong trào dân chủ chóng chủ nghĩa phát xít trên thế giới, hai xu hướng tư sản và vô sản đã từng tồn tại song song trong giai đoạn trước nay đã tụ hội theo một hướng chung là cứu nước, mặc dù điều đó chỉ được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định và ở một chừng mực nhất định. Vì vậy, nét mới của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong giai đoạn này là sự thành lập ở hầu hết các nước Đông Nam Á Mặt trận dân tộc thống nhất và lực lượng vũ trang cách mạng. Mở đầu là Việt Nam độc lập đồng minh (5-1941) và các đội Cứu quốc quân, sau là Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Trong những năm 1942 – 1944, lần lượt xuất hiện Đổng minh dân chủ Philippin với đội quân Húcbalaháp, Liên hiệp nhân dân Mã Lai chống Nhật cùng các đơn vị Quân đội nhân dân, Liên minh tự do nhân dân chống phát xít cùng Quân đội quốc gia Miến Điện… 

Thất bại của chủ nghĩa phát xít trên thế giới, thời điểm quân phiệt Nhật Bản đầu hàng đồng minh là thời cơ ‘có một không hai”, tạo ra tình thế mới hết sức thuận lợi cho phong trào giành độc lập dân tộc ở Đông Nam Á. Chớp lấy thời cơ, nhân dân các nước Đông Nam Á đã nhất tế vùng dậy tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước. 

Trong hoàn cảnh chung đó, cách mạng Việt Nam có những nét riêng tiến đến thắng lợi vào tháng Tám năm 1945. Trong nửa đầu những năm 40, cuộc đấu tranh giành quyền lực diễn ra rất quyết liệt giữa các lực lượng chính trị ở trong và ngoài nước. Nhưng Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản đã nằm trong tay ngọn cờ dân tộc, có uy tín lớn trong nhân dân, trải qua nhiều thử thách của lịch sử, xác định đúng kẻ thủ của cách mạng. Trong khi tranh thủ mọi khả năng để tập hợp lực lượng, Đảng ta đã tự giải quyết lấy nhiệm vụ cách mạng của mình, giữ lấy địa vị người chủ đất nước để đón tiếp phe đóng minh. Chủ trương sáng suốt đó đã đưa những người lãnh đạo cách mạng nắm đúng thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa, tuyên bố độc lập và thành lập Nhà nước cộng hòa dân chủ trước khi quân Anh và quân Tưởng vào nước ta giải giáp quân Nhật. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam là trường hợp điển hình của phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á và trên thế giới. 

Ở Inđônêxia, ngay sau khi Nhật đầu hàng, ngày 17-8-1945, đại diện các đảng phái và đoàn thể yêu nước đã soạn thảo và kí vào Tuyên ngôn độc lập. Trước cuộc mít tinh của đông đảo quần chúng ở thủ đô Giacácta, Xucácnô đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, thành lập nước Cộng hoà Inđônêxia. Ngày 4-9-1945, chính phủ Inđônêxia được thành lập, đứng đầu là Xucácnô. Hiến pháp mới của Inđônêxia được thông qua, mở ra thời kì mới trong lịch sử Inđônêxia. 

Ở Lão, sau khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh ngày 23-8-1945, nhân dân Lào đã nổi dậy thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi. Ngày 12-10-1945, nhân dân thủ đô Viêng Chăn khởi nghĩa giành chính quyền, chính phủ Lào ra mắt quốc dân và trịnh trọng tuyên bố trước thế giới nền độc lập của Lào. 

Tuy nhiên, để bảo vệ nền độc lập dân tộc, nhân dân các nước Việt Nam, Lào, Inđônêxia còn phải trải qua cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong nhiều năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai. 

Ở các nước khác, các lực lượng yêu nước và quân đội vũ trang đã đấu tranh anh dũng chống phát xít Nhật, giải phóng phần lớn đất đai trong nước. Tuy vậy, thời cơ giành độc lập ở các nước này đã bị bỏ lỡ, quân Mi trở lại Philippin, quân Anh trở lại Miến Điện, Mã LaiXingapo và Brunây. Đến đây đã khép lại thời kì đấu tranh giành độc lập ở Đông Nam Á và mở ra một thời kỉ mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở khu vực này.