Sự phát triển kinh tế đầu thế kỉ XX

1. Sự hình thành các tổ chức lũng đoạn 

Thời kì phồn vinh cuối thế kỉ XIX và cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1900 – 1903 được coi là cái mốc chung của bước ngoặt sang chủ nghĩa đế quốc. Sự tiến bộ về kĩ thuật đầu thế kỉ XX đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. Động cơ điện thay thế cho máy hơi nước, việc sản xuất thép bằng phương pháp sử dụng vonphram dẫn tới một bước tiến lớn trong ngành cơ khí, các ngành công nghiệp mới phát triển : điện khí, hóa học, ô tô… Tổng sản lượng công nghiệp tăng lên rõ rệt, thường gấp từ 1,5 – 3 lần. Các công ti lũng đoạn xuất hiện rất nhiều và nhanh.

 Ở Đức, xanhdica than Ranh – Vexphali dã thu hút 20 xí nghiệp trong khoảng từ 1893 – 1902 và đến năm 1910 năm 95,41% việc khai thác than trong vùng Rua Hai độc quyền điện “Ximen Hanxce” và ‘Tổng công tố điện khí (A.E. G) tập trung 2/3 ngành điện. Torren đầu lửa Xtanda của Mi thành lập năm 1990 có số vẫn là 150 triệu đôla. Toros thép Mi không chế 2/3 sản xuất thép trong nước. Ở các nước khác hiện tượng hình thành các tổ chức lũng đoạn cùng diễn ra tương tự.

Mục đích của lũng đoạn là bảo đảm nguồn lợi nhuận cao, hạn chế cạnh tranh và ngăn ngừa khủng hoảng. Nhưng thực ra nó không thể chấm dứt được tình trạng cạnh tranh, sản xuất vô chính phủ và khủng hoảng là những hậu quả tất nhiên của chủ nghĩa tư bản. Trái lại, nó còn làm cho những hiện tượng đó trở nên gay gắt hơn, mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế sâu sắc thêm gấp bội. 

Cùng lúc này, sự tập trung cũng diễn ra trong ngành ngân hàng và có những nơi nhanh hơn tập trung công nghiệp. Những nhà ngân hàng lớn thu hút hoặc khống chế các ngân hàng nhỏ. Phần lớn tài chính ở Đức tập trung trong tay 6 ngân hàng ở Pháp có 3–4, ở Mi có 2. Sử dụng nguồn tư bản to lớn của mình, chủ ngân hàng gây áp lực đối với chủ các ngành sản xuất để thiết lập quyền kiểm soát trong công nghiệp, thương nghiệp, vận tải… Từ đó, đại diện của nhà ngân hàng thường tham gia các ban quản trị, có khi nắm chức vụ giảm đốc của xí nghiệp, hội buôn, công ti vận tải bảo hiểm… Mặt khác, đại diện các chủ xí nghiệp cũng tham gia trong ban quản trị nhà ngân hàng. Sự hình thành tư bản tài chính với số vốn kếch sù, quyền lực vô hạn đã tạo nên một bọn trùm tư bản khống chế các mặt sinh hoạt kinh tế và chính trị của nhà nước.

2. Xuất khẩu tư bản, sự phân chia thị trường thế giới và tranh chấp thuộc địa 

Điều đặc biệt quan trọng của thời kì lũng đoạn là sự xuất khẩu tư bản. Bọn trùm tài chính ở các nước chuyển vốn ra kinh doanh ở bên ngoài dưới hình thức xây dựng xí nghiệp khai thác và chế tạo, đạt đường sắt và các phương tiện giao thông vận tải hoặc là đem cho vay. Làm như vậy, thu được nhiều lãi hơn vì ở các thuộc địa hoặc những nơi kém phát triển, giá nguyên liệu và nhân công còn rẻ. Các nước tư bản “già” như Anh, Pháp thường thu được nhiều lời hơn các nước trẻ vì nó có nhiều thuộc địa hơn. Điều đó làm cho sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nó không còn là cuộc tranh chấp giữa các công ti tư nhân mà là giữa các tập đoàn lũng đoạn lớn của Nhà nước. Để tạm thời hòa hoãn mâu thuẫn, các liên minh độc quyền phải thương lượng với nhau để lập nên cácten quốc tế với mục đích phân chia thị trường đầu tư. 

Năm 1907, hai công ty điện của Mĩ (G.E.C) và Đức (LE.C) chia nhau thị trường : G.E.C được “nhận phần” nước Mỹ và Canada, A.E.C dược “nhận phần” Đức, Áo. Nga, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kì, bán đảo Ban Căng. Như vậy, những công ti điện khí khác khi có thể đối chọi được với hai lập đoàn trên. 

Nhưng khi tương quan lực lượng thay đổi, sự thỏa hiệp khi trước không còn phù hợp thì lại diễn ra cuộc cạnh tranh mới để đòi hỏi sự phân chia mới. Trong các ngành dấu lửa, thép, đường ray… đều thành lập những cacten quốc tế như vậy. Đến năm 1914 đã có 114 cácten quốc tế, chia nhau thị trường tiêu thụ ở nhiều nước. 

Những biện pháp trên không thủ tiêu được cạnh tranh và khủng hoảng. Trái lại, sự thống trị của các tổ chức lũng đoạn càng thúc đẩy việc xâm chiếm thuộc địa. Tới giai đoạn này, chiếm thuộc địa có nghĩa là độc chiếm nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ, độc chiếm thị trường đầu tư và tiêu thụ hàng hóa, xây dựng một cơ sở chắc chắn cho mình trong cuộc tranh chấp với đối thủ khác. Đó là chưa kể tới ý nghĩa chiến lược về mặt quân sự và nguồn cung cấp bia đỡ đạn trong những cuộc chiến tranh ăn cướp. Các nước để quốc vẫn ráo riết đi tìm thuộc địa ở những vùng đất còn “bỏ trống”. Các đế quốc “gia” không chỉ muốn duy trì thuộc địa cũ mà còn muốn mở rộng thêm đất đai. Các đế quốc “trẻ” thì đòi hỏi “một chỗ đứng dưới ánh mặt trời”, không chỉ muốn chiếm vùng đất còn “trống mà còn làm le giành giật thuộc địa của kẻ khác. Nhất là đến đầu thế kỉ XX, việc phân chia thế giới hầu như đã “hoàn thành” thì các lãnh thổ chỉ có thể đem chia lại mà thôi. 

Cuộc chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha (1898) mở đầu cho thời kì này. thời kì chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Tiếp theo là những cuộc chiến tranh Anh – Bảo (1899 – 1902), chiến tranh Nga – Nhật 11904 – 1905) và cuối cùng là cuộc chiến tranh thế giới 1914 – 1918 mà trong đó, hầu hết những nước tham gia là phi nghĩa 

3. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc 

VI Lênin phân tích một cách khoa học giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa tư bản, nêu lên bản chất và địa vị lịch sử của nó. Người vạch ra 5 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là :

– Sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới mức độ phát triển rất cao, tạo thành những tổ chức lũng đoạn có một vai trò quyết định trong sinh hoạt kinh tế.

– Sự dung hợp tư bản ngân hàng với tư bản công nghiệp thành tư bản tài chính.

– Việc xuất khẩu tư bản trở thành đặc biệt quan trọng 

– Sự hình thành những khối liên minh tư bản độc quyền chia nhau thế giới. 

– Việc các cường quốc tư bản lớn nhất đã chia nhau xong đất đai trên thế giới. 

Với năm đặc trưng cơ bản trên, mỗi nước do điều kiện lịch sử và kinh tế của mình đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc với những nét riêng biệt. Lênin đã chỉ ra đặc điểm ở Mĩ là sự hình thành các tơrơt khổng lồ với những tập đoàn tài chính giàu sụ ; ở Anh là “đế quốc thực dân” với hệ thống thuộc địa rộng lớn và đông dân ; ở Pháp là “đế quốc cho vay lãi” với những món tiền cho vay xuất cảnh sang các nước khác, nhất là sang nước Nga, ở Đức là “đế quốc tư sản gioongke” với sự câu kết về quyền lợi của hai giai cấp tư sản và quý tộc ; ở Nga và Nhật là “đế quốc phong kiến quân sự với những tàn dư của chế độ phong kiến và quân phiệt. 

4. Sự gia tăng mâu thuẫn xã hội 

Nền kinh tế tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa có những bước tiến rất lớn nhưng còn kém xa so với khả năng mà sự tiến bộ kĩ thuật có thể tạo ra được. Trong cuộc cạnh tranh kiếm lợi nhuận, vì không thể thường xuyên trang bị theo kĩ thuật mới, bọn tư bản rất lo ngại trước các phát minh khoa học, hủy bỏ hoặc cất giấu những sáng kiến mới, kìm hãm bước tiến của sản xuất. Sự xuất khẩu tư bản đã tách rời một tầng lớp người ra khỏi sản xuất, chuyên sống bằng thực lợi rút từ xương máu của quần chúng lao động. Tình trạng trì trệ của tốc độ sản xuất ở một số nước tư bản lớn như Anh Pháp… là hậu quả tất nhiên của việc chạy đua xuất khẩu vốn và bóc lột nhân dân các thuộc địa và nửa thuộc địa. 

Nén sản xuất trong thời kì đế quốc chủ nghĩa được xã hội hóa ở mức độ cao. Hàng ngàn vạn công nhân, kĩ sư được tập trung làm việc theo một quy trình sản xuất. Sự phân công lao động rất tinh vi. Các ngân hàng và nhà công nghiệp tập trung vốn vào các phương tiện sản xuất trên một quy mô lớn. Nhưng trong khi sự sản xuất được xã hội hóa thì quyền sở hữu tư nhân lại tập trung ở mức độ rất cao. Những mâu thuẫn của quy luật cơ bản của nền kinh tế tư bản hết sức gay gắt. Những cuộc khủng hoảng năm 1900 – 1903, 1907, 1913 báo hiệu thời kì tổng khủng hoảng sắp tới. Đối kháng giai cấp sâu sắc dẫn tới cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp tư sản và vô sản. Trong khi giai cấp tư sản tăng cường bóc lột và bắn cùng hóa nhân dân thì giai cấp vô sản tập trung và đông đảo về số lượng trưởng thành về ý thức, vững mạnh về tổ chức, tiến hành đấu tranh giải phóng lao động. Những mâu thuẫn khác của chủ nghĩa đế quốc cũng chi phối sự tiến triển của thời cuộc : giữa các nước đế quốc với nhau, giữa giai cấp tư sản và nhân dân thuộc địa. Trong tình hình đó, giai cấp vô sản sẽ lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng những người lao động bị áp bức, bóc lột.