Tình hình chính trị ở Pháp

1. Thành lập chế độ Cộng hòa thứ ba 

Sau khi Công xã Pari thất bại, chính quyền Pháp tiến hành chính sách khủng bố tàn khốc, đàn áp các chiến sĩ cách mạng, cấm các tổ chức Quốc tế I hoạt động ở trong nước. Mặt khác, thế lực phản động trong giai cấp tư sản âm mưu phục hỏi nên quân chủ. Cuộc đấu tranh để thiết lập nền Cộng hòa trở thành vấn đề hàng đầu của sinh hoạt chính trị trong suốt 30 năm cuối thế kỉ XIX. 

Thế lực bảo hoàng gồm các phái Chính thống (dòng Buốc Bông), Docleang và Bônapactơ đều muốn đưa người của mình lên nắm chính quyền. Nhưng trước yêu cầu thiết lập nền Cộng hòa của quán chúng và sự phân hóa giữa ba đăng bảo hoàng, họ tạm hòa hoãn bằng cách đưa Chie lên làm tổng thống. Chie tuyên bố Cộng hòa nhưng thực ra là thiết lập nên thống trị phản động. Hiến pháp năm 1875 đã thừa nhận chính thể cộng hòa với đa số hơn một phiếu (353/352). Nên Cộng hòa thứ ba tồn tại cho đến năm 1940 – khi phát xít Đức xâm chiếm nước Pháp. Đặc điểm của nó là tình trạng thường xuyên khủng hoảng nội các : chỉ trong 17 năm từ 1873 đến 1890 nội các phải thay đổi tới 34 lần. Nhiều vụ bê bối bị vỡ lở : 

Năm 1887, vụ mua bán huân chương do một nghị viên là con rể tổng thống Grey tiến hành bị phát giác. Nhiều nhân vật cao cấp dính líu đến vụ buôn bán này. Nó chứng tỏ sự thối nát trong chính quyền cộng hòa và cuối cùng Grévy phải thôi chức tổng thống. 

Năm 1892, công ty Panama tập trung một số vốn rất lớn để đào con kênh nối liền Đại Tây Dương với Thái Bình Dương bỗng nhiên tuyên bố vỡ nợ làm cho hàng ngàn người góp cổ phần bị phá sản. Người ta phát hiện ra rằng, để lấy cắp cổ phần, công ti đã đút lót nhiều cho các nghị viên, các bộ trưởng các quan chức và báo chí. Do đó, hầu hết các nhân vật có tiếng tăm của nền Cộng hòa tư sản đều mất uy tín, nhiều người phải rút khỏi vũ đài chính trị. 

Nếu đầu những năm 70, họ nêu khẩu hiệu : “Giáo sĩ – đó là kẻ thù” thì đến những năm 90 đã biến thành ‘Chủ nghĩa xã hội – đó là kẻ thù”. Những vụ khám nhà bắt bớ và xét xử bừa bãi xảy ra liên tiếp, đạo luật cấm quyền tự do báo chí ra đời nhằm chia mũi nhọn vào giai cấp công nhân và những người dân chủ tiến bộ. Đồng thời chiến dịch tuyên truyền tư tưởng sô-vanh, ca ngợi giáo sĩ, tôn sùng “thanh kiếm” và khinh miệt dân đen được tiến hành rộng rãi. Đương nhiên những hoạt động phản động đều gặp sức phản kháng của phe dân chủ tiến bộ mà cuộc đấu tranh gay gắt khi đó xoay quanh vụ án Dray Phut. 

Năm 1894, tòa án quân sự đã xử án đày chung thân Đray Phút, một sĩ quan người Do thái bị gán tội bản tài liệu quân sự cho Đức. Bọn bảo hoàng cùng các phân từ phản động lợi dụng chủ nghĩa bài Do thái để tấn công nền Cộng hòa và phe dân chủ. Nam 1897, bảo chí đã tiết lộ thủ phạm chính lại là một tên gián điệp người Hung được bè lũ quân phiệt phản động Pháp che chở. Lực lượng dân chủ bao gồm các nhà văn, (trong đó có Emin Dola nổi tiếng với bức thư “Tôi tố cáo”), các nhà khoa học, các nhân vật xã hội chủ nghĩa và quần chúng nhân dân đòi xử lại vụ án, nhưng bọn cầm quyền ngoan cố không chịu đưa ra xử lại. Cuộc đấu tranh gay gắt xoay quanh vụ án Đrây Huyt không chỉ thu hẹp trong vấn đề một cá nhân mà là vấn đề tranh chấp giữa hai lực lượng tiến bộ và phản động, dân chủ và quân phiệt. Phải đến năm 1906, Drâyhuyt mới được tha bổng và thăng chức. Còn tro hỏa táng Emin Dola, người chiến sĩ đấu tranh tích cực cho công lí, được đưa vào đền Pangteong. Một lần nữa, lực lượng dân chủ giành được phần thắng về mình. 

2. Chính sách đối ngoại và xâm lược thuộc địa 

Từ sau thất bại trong cuộc chiến tranh 1870 – 1871, sự lớn mạnh của Đức vẫn là mối lo ngại của nước Pháp. Trong những năm 70 – 80, Bixmác nhiều lần gây sự, làm lễ mở những cuộc xâm lược mới vào nước Pháp, Pháp phải tìm lực lượng ủng hộ mình trong việc đóng minh với Nga. Việc Nga hoàng cần vay nợ và quan hệ Nga – Đức căng thẳng khiến cho liên minh Nga – Pháp được hình thành vào năm 1893. Đó là một đòn trà miếng đối với liên minh tay ba Đức – Ý – Áo Hung (1882), làm cho lực lượng so sánh ở châu Âu thay đổi rõ rệt. 

Chiếm vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Pháp là những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa được tiến hành ráo riết ở châu Á và châu Phi trong những năm 80 – 90. 

Năm 1858, Pháp mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đến năm 1884 thì hoàn thành việc thôn tính. Cùng trong thời gian này, thực dân Pháp ráo riết tiến hành xâm lược Campuchia và Lào, biến những nơi đó thành thuộc địa. 

Cùng với các đế quốc khác. Pháp tham gia xâu sự Trung Quốc. Năm 1895 Pháp được quyền khai thác ở 3 tỉnh miền Nam (Quảng Đông. Quảng Tây, Vân Nam). Năm 1898, Pháp “thuế” đảo Hải Nam Quảng Châu Loan lập tổ giới và khu vực ảnh hưởng ở nhiều thành phố và tỉnh ở Trung Quốc. 

Cuộc chiến tranh xâm lược được tăng cường ở châu Phi. Nam i881, Pháp chiếm Tuynidi rối mở rộng sang lưu vực sông Ni Giê, một phán Congo và Sahara. Năm 1886, Madagascar bị biến thành một xứ bảo hộ Trong những năm 90, nước Pháp liên tiếp chinh phục Xénégan, Tây Xuan, Ghinê, một phần Công Gô, Đahômây và nhiều khu vực khác. Trên địa bàn này. Pháp gặp phải sự cạnh tranh của Anh, đặc biệt là vụ tranh chấp ở làng Phanôda (1898) thuộc vùng sông Nin. Trước áp lực của Anh, quân Pháp phải rút lui. Đến năm 1899, Anh và Pháp kí kết hiệp ước quy định vùng đất đai xâm chiếm của mỗi bên ở châu Phi. 

Chỉ trong một thời gian ngắn, thuộc địa của Pháp được mở rộng nhanh chóng. Trong những năm 60, nước Pháp chỉ có thuộc địa 0,2 triệu dặm vuông với 3,4 triệu dân thì đến năm 1899 đã có 3,7 triệu dặm vuông với 561 triệu dân. Về mặt này, nước Pháp đã vươn lên hàng thứ hai sau Anh. 

3. Phe Cấp tiến cầm quyền đầu thế kỉ XX 

Những người cộng hòa trong khi cầm quyền đã không giữ lời hứa về việc cải cách xã hội nên từ nội bộ tách ra một cánh tả gọi là phe Cấp tiến. Những người Cấp tiến dựa vào tầng lớp trung, tiểu tư sản, trí thức và một bộ phận công nhân lớp trên. Lãnh tụ của họ là Gioocgiơ, Clêmăngxô (1841 – 1929), người luôn luôn tuyên truyền cho một nước Pháp cộng hòa dân chủ mạnh mẽ, tự xem mình là người thừa kế nên cộng hòa thứ nhất, lấy việc phục thù Đức làm nhiệm vụ chủ yếu. Phế phản kịch liệt chính sách của các chính phủ cộng hòa, Clêmăngxô đã góp phần làm đổ nhiều nội các nên được gọi là “người chuyên lật đổ nội các”. 

Trước cao trào đấu tranh của quần chúng, các chính phủ Cấp tiến buộc phải thực hiện một phần nào chương trình cải cách : tách giáo hội ra khỏi hoạt động nhà nước, thanh trừ bọn sĩ quan bảo hoàng ra khỏi quân đội. Nhưng thực ra, ở cương vị cầm quyền, phe Cấp tiến luôn luôn tỏ ra là kẻ bảo vệ nhiệt thành quyền lợi của giai cấp tư sản, đối lập với quyền lợi của quần chúng nhân dân. 

Trong chính sách đối ngoại, các chính phủ Cấp tiến vẫn tiếp tục việc hành trưởng thuộc địa, đặc biệt là cuộc chiến tranh nhiều năm ở Maroc nhằm biến nơi đó thành một xứ bảo hộ (năm còn tiếp tay cho Nga hoàng bằng những món tiến cho cao trào cách mai 1905 – 1907 ở Nga. 

Họ vay lớn để dân Đối với phong trào công nhân trong nước, một mặt họ tiến hành và cải cách vụn vật, lập Bộ Lao động do một người xã hội chủ nghĩa cải lương là Viviani làm bộ trưởng trả hưu bóng cho công nhân già 65 tuổi. Mặt khác, chính phủ Cấp tiến tập trung mũi nhọn đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân. Clê Măng xô điều quân đội về thủ đô đàn áp những cuộc bãi công của công nhân điện, khuân vác, giày dép vào mùa hè 1907 và dập tắt phong trào biểu tình của nông dân trồng nho ở các quận miền Nam. Chính phủ Cấp tiến đưa ra dự luật cấm các công đoàn viên chức không được tham gia Tổng liên đoàn lao động và không được bãi công. Trong vòng 3 năm cầm quyền (1906 – 1909), Clêmăngxô đã bóp nghẹt phong trào dân chủ và cách mạng một cách khốc liệt.