Nước Pháp dưới thời đế chế Hai
1. Tình hình chính trị và kinh tế – xã hội
Chế độ Bônapactơ thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ đã ban hành trong thời kì cách mạng 1848. Chính phủ bãi bỏ các tổ chức dân chủ, ngăn cấm các câu lạc bộ chính trị, hạn chế tự do báo chí, đóng cửa các tờ báo đối lập, nhà trường và nhà hát chịu sự kiểm soát ngặt nghèo của cảnh sát. Những người Cộng hòa bị truy tầm gắt gao. Bộ máy quan liêu và cảnh sát được tăng cường đến mức chưa từng thấy. Giáo hội có ảnh hưởng to lớn trong các lĩnh vực sinh hoạt của nhà nước.
Cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp hoàn thành vào những năm 50–60 của thế kỉ XIX sau một thời gian phát triển lâu dài. Hầu hết các ngành công nghiệp đều sử dụng máy móc. Không kể số máy dùng trong các đầu xe lửa và tàu biển, việc sử dụng máy hơi nước tăng lên đến bốn lần, từ 6080 máy lên 26221 máy (1852-1869).
Ngành công nghiệp nặng phát triển với nhịp độ nhanh chóng, tốc độ vượt hẳn công nghiệp nhẹ, mặc dấu tỉ trọng trong khối lượng tổng sản phẩm công nghiệp còn thua kém.
Sự phát triển của ngành giao thông thủy bộ cũng thể hiện một mặt của bước tiến công nghiệp trong vòng 20 năm. Trong khoảng 1850-1870 chiều dài đường sắt tăng lên 5 lần, tàu chạy bằng máy hơi nước tăng hơn 3,5 lần với trọng tài tăng hơn 10 lần.
Càng trong thời gian này ở nước Pháp bắt đầu diễn ra quá trình tập trung sản xuất với quy mô lớn. Trong khoảng thời gian 1856 – 1868, số là cao thuộc ngành luyện kim giảm đi một nửa trong khi sản phẩm tăng gấp ba lần. Xí nghiệp luyện kim Cro Dô thuê tới 1 vạn công nhân. Các cơ sở kinh doanh đường sắt tập trung trong 6 công ti. Trong ngành thương nghiệp cũng bắt đầu xuất hiện những cửa hàng tổng hợp lớn ở Pari. Tuy nhiên, các cơ sở kinh doanh quy mô vừa và nhỏ vẫn phổ biến và chiếm ưu thế. Theo thống kê thì cuối những năm 60, 75% chủ xưởng là người kinh doanh các cơ sở vừa và nhỏ, 60% công nhân làm việc tại đó. Riêng Pari, trong số 44 vạn công nhân thì chỉ có 5 vạn làm việc trong xỉ nghiệp lớn (hơn 11%) số còn lại làm việc trong các xưởng nhỏ chế tạo giấy dép, thực phẩm. áo quán, xa xỉ phẩm, mỗi xưởng không quá 10 người thợ. Hình thức gia công của thời kì công trường thủ công vẫn tồn tại.
Sự phát triển của ngoại thương cũng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Pháp : năm 1851 tổng số tiến mậu dịch đối ngoại là 2615 triệu phrăng năm 1869 đã lên tới 8003 triệu. gấp hơn 3 lần. Bằng những hiệp ước kí kết với các nước, Pháp tăng cường buôn bán với Anh, Bỉ, Đức, Ý, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Hà Lan, Áo, Bồ Đào Nha… trong đó nước Anh chiếm tỉ lệ hàng hóa cao nhất.
Sự phát triển của tư bản ngân hàng diễn ra nhanh hơn sự phát triển của tư bản công nghiệp. Những hoạt động của ngân hàng Pháp. tăng lên gấp 5 lần (năm 1851 : 1592 triệu phrăng, 1869 : 8325 triệu. phrăng). Các cơ sở giao dịch hoạt động rất mạnh mẽ. Sở Giao dịch Pari trở thành một thị trường buôn bạc ở châu Âu, cạnh tranh với Sở Giao dịch Luân Đôn. Số tư bản to lớn đó của nước Pháp không được sử dụng vào việc phát triển công nghiệp hay nông nghiệp. Phần lớn được xuất khẩu ra các nước chậm phát triển ở châu Âu và các thuộc địa dưới hình thức ngân hàng cho vay lại hay đầu tư khai thác những nước đó. Năm 1868, 14 chính phủ các nước phải vay nợ của ngân hàng Pháp 33 tỉ phrăng. Nước Pháp dần dần đóng vai trò của kẻ cho vay trên thị trường thế giới.
Do ảnh hưởng của sự phát triển công nghiệp, bộ mặt Pari và các thành phố thay đổi rõ rệt. Một hệ thống đại lộ, nhà ga, cửa hàng công viên được dựng lên thay thế các phố cũ chật hẹp.
Năm 1857, cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra trong các ngành công nghiệp quan trọng. Đến 1866-1867, những cuộc khủng hoảng xảy ra trong ngành tín dụng nhiều hơn là trong công nghiệp.
Nhìn chung đến những năm 50-60 thế kỉ XIX, nước Pháp đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp sau hơn một thế kỉ tiến hành. Đặc điểm của nó là ngay trong cao trào sản xuất công nghiệp. nền sản xuất quy mô vừa và nhỏ văn chiếm ưu thế. Phần lớn số vốn không đầu tư vào các ngành công nghiệp mà dùng để cho vay. Cũng như bất cứ một nước tư bản chủ nghĩa nào khác, cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp được tiến hành một cách tự phát theo quy luật thặng dư giá trị, quy luật lợi nhuận. Nó thường bắt đầu phát triển từ các ngành công nghiệp nhẹ. Nguồn tích lũy tư bản của nó được thực hiện bằng cách bóc lột nhân dân trong nước, nhân dân các thuộc địa và nhân dân các nước khác.
Quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đem lại những món lợi kếch sù cho giai cấp tư sản, nhưng đồng thời bản cùng hóa các tầng lớp quần chúng lao động. Nam 1858, ở Pháp có tới 3 triệu ăn mày và chừng 6 triệu người không đủ mức sống tối thiểu. Tiền lương thực tế giảm sút vì giá bánh mì và các thực phẩm tăng 50%, trong khi tiền lương danh nghĩa chỉ tăng có 10%. Ngày làm việc của công nhân kéo dài từ 13 đến 16 giờ. Đặc biệt là phụ nữ và trẻ em bị bóc lột rất cùng cực. Năm 1867, lương nữ công nhân chỉ bằng 55% lương nam giới, lương trẻ em chỉ bằng 12%. Một số xí nghiệp thuê cả trẻ em dưới 8 tuổi. Vì tiền lương rẻ, bọn chủ xưởng thường thích thuê công nhân phụ nữ và trẻ em hơn nam giới. Kết quả của lối bóc lột thậm tệ đó là tư bản ngày càng tích lũy trong tay chủ xưởng, còn công nhân thì ngày càng tàn tạ. Bệnh ho lao, vẹo xương sống, bệnh sốt rét và các bệnh khác luôn luôn đe dọa cuộc đời của họ. Tình trạng già trước tuổi, chết yểu… trở thành phổ biến. Các tai nạn lao động thường xảy ra vì bọn chủ không chú ý tới việc bảo hiểm. Chế độ giám thị trong nhà máy rất khắt khe, bọn cảnh sát và bọn côn đó luôn luôn theo dõi, hễ ai ngừng tay là phải nộp phạt. Quy chế về “Sổ tiểu bạ công nhân” lại được áp dụng giống như thời Napôlêông I.
Những hi vọng của đông đảo nông dân khi cấm là phiếu bầu cho Bônapactơ bị tiêu tan nhanh chóng. Nạn thiếu đất, nạn cho vay nặng lãi, ách bóc lột của bọn địa chủ và phủ nông, các hình thức tổ chức nô dịch, thuế mà nặng nề…, đè nặng lên người tiểu nông. Hàng chục vạn người bị phá sản, phải kéo ra thành thị, lập thành hậu bị quân công nghiệp. Năm 1851 số nông dân chiếm 74% cư dân thì đến 1866 chỉ còn có 69,5%. Những người nông dân đó, thoát khỏi ách thống trị ở nông thôn lại sa vào nạn bóc lột của giai cấp tư sản. Chỉ có bọn khá giả trong nông thôn, làm giàu nhờ sự bóc lột thậm tệ và buôn bán nông sản phẩm mới tiếp tục ủng hộ chế độ Bônapactơ.
Tầng lớp tiểu tư sản cũng trở thành vật hi sinh cho đại tư sản trong công cuộc công nghiệp hóa. Đế chế đã làm cho tầng lớp này bị phá sản nhanh chóng bằng cách cướp đoạt tài sản và cạnh tranh tiêu diệt họ để xúc tiến việc tập trung tư bản. Nền tiểu sản xuất bị bóp chết trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản.
2. Chính sách xâm lược thuộc địa
Sau khi lên nắm chính quyền, Napoleon III tuyên bố “Đế chế là hòa bình”. Nhưng chính sách đối ngoại hoàn toàn trái ngược với lời nói trên. Đế chế II đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh hồng đem lại của cải và nguyên liệu về cho bọn đại tư sản ngân hàng và công nghiệp, đem lại danh vọng và tiền tài cho bọn quân phiệt và muốn nhờ những chiến công bên ngoài để củng cố địa vị thống trị ở trong nước.
Quan hệ ngoại giao giữa Pháp và các nước châu Âu.
Sau khi củng cố địa vị ở trong nước, Napoleon III liên tham gia cuộc chiến tranh Crưm (từ 1853 đến 1856). Nước Pháp liên minh với Anh để chống Nga nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Hắc Hải. Nga bị thất bại, phải kí kết hòa ước Pari ngày 30-3-1856. Mặc dầu Anh là kẻ có lợi nhất nhưng nhờ cuộc chiến tranh này, Napôlêông đã tăng cường ảnh hưởng của mình ở trong và ngoài nước. Sợ hãi địch thủ Anh lớn mạnh, Pháp lại bí mật liên kết với Nga để chống Anh. Trước cao trào cách mạng tư sản, Napoleon III can thiệp vũ trang vào cuộc đấu tranh thống nhất nước Ý, ngăn cản sự thống nhất nước Đức, dẫn tới cuộc chiến tranh Pháp Đức năm 1870.
Chính sách bành trướng thuộc địa
Chính phủ Napôlêông III tiếp tục mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Angieri. Từ năm 1830 tập đoàn quý tộc tài chính Luy Philip đã nổ súng tấn công Angiêri. Ở đây chúng đã gặp sức kháng cự mãnh liệt và kiên cường của nhân dân Angiêri dưới sự lãnh đạo của một nhà chỉ huy quân sự có tài và đẩy nghị lực Ap Den Cade. Năm 1834 và 1837 Pháp buộc phải kí hòa ước thừa nhận chính quyền Cade trên 2/3 lãnh thổ. Tuy vậy, cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm lược vẫn tiếp diễn. Đến những năm 50, Napoléon III bành trướng xuống phía nam, sáp nhập vào nước Pháp một phần lớn đất đai Sahara và hoàn thành việc chinh phục các vùng rừng núi.
Để mở rộng thuộc địa, Napoleon III cấu kết với Anh, Mĩ… nhiều lần tấn công vào Trung Quốc, buộc triều đình Mãn Thanh phải kí những điều ước không bình đẳng
Cuối những năm 50, quân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam. Từ thế kỉ XVII, những người Pháp đầu tiên đặt chân lên nước ta, đã để lộ dã tâm muốn chinh phục Việt Nam. Trải qua một quá trình lâu dài vừa chuẩn bị lực lượng, vừa bị những biến cố lớn lao trong nước ngăn trở (cách mạng 1789, chiến tranh Napôlêông, thời kì Trung hưng, cách mạng 1830, cách mạng 1848..) nước Pháp mới hạn chế trong một số hoạt động “ngoại giao”, truyền giáo, gián điệp và một vài cuộc xung đột nhỏ. Đế chế II là thời kì thuận lợi nhất cho việc đẩy mạnh xâm lược Việt Nam. Khi đó, chủ nghĩa tư bản phát triển đòi hỏi ngày càng cấp thiết thị trường và nguyên liệu. Nên thống trị tạm thời ổn định và có một số dấu hiệu bề ngoài tựa hồ như vững vàng để có thể tiến hành những cuộc viễn chinh ở các nơi. Napôlêông III trông chờ vào những chiến thắng ngoài biên giới để củng cố địa vị, nâng cao uy tín của Đế chế, vơ vét thêm nhiều của cải. Việt Nam lại là một vị trí quan trọng ở phía đông, có thể làm bàn đạp tấn công Trung Quốc, cho nên Napoleon III tiến hành xâm lược Việt Nam bằng vũ lực.
Năm 1858, sau khi tấn công Quảng Châu, hạm đội Pháp tiến về bán phá cửa biển Đà Nẵng, một vị trí chiến lược quan trọng của nước ta. Tháng 2-1859, quân Pháp tiến sâu vào nội địa, chiếm lấy Gia Định. Nam 1861, ba tỉnh miền Đông Nam Kì bị thất thủ (Biến Hòa, Gia Định, Định Tường). Trên con đường tiến quân, quân Pháp luôn luôn vấp phải sức kháng cự kịch liệt của các tầng lớp nhân dân. Nhưng triều đình phong kiến nhà Nguyễn thối nát không tin vào thắng lợi, đã nhận những điều khoản bất bình đẳng trong hòa ước 1862. Trả lời bản hòa ước nhục nhà đó là cao trào kháng chiến của quần chúng. Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương.. trở thành những nhà lãnh đạo của phong trào chống Pháp, tên tuổi mãi mãi gắn liền với sử sách.
Trong khi đó, Pháp cũng dòm ngó Campuchia. Sau khi thất bại trong những hoạt động ngoại giao” hòng buộc nhà vua Nôrôđôm công nhận quyền “bảo hộ” của Napoleon III, quân Pháp liên tiến hành cuộc chính biến vào cuối 1863, chiếm lấy hoàng cung treo cờ tam tài trên thành, buộc nhà vua phải khuất phục. Chống lại hành động cướp nước trắng trợn của bọn thực dân, hai dân tộc Việt Nam – Campuchia liên minh chiến đấu : Trương Định cùng Achaxoa, Trương Quyển cùng pucombo phát động cao trào chống Pháp trên một địa bàn rộng lớn khắp Nam Kì và Campuchia. Cuộc chiến đấu giành được nhiều thắng lợi, nhưng cuối cùng đều bị dìm trong biển máu.
Chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kì và Campuchia, quân Pháp. tiến đánh ba tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên vào tháng 6-1867. Một lần nữa triều đình phong kiến Việt Nam tỏ thái độ đầu hàng, không dám phát động quần chúng nổi dậy. Tuy vậy, với tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống bất khuất của dân tộc, nhân dân miền Tây Nam Bộ cùng vùng lên chiến đấu ngăn cản bước tiến của quân thủ.
Năm 1862, chính phủ Napoleon III lại mở một cuộc phiêu lưu mới ở bên kia Đại Tây Dương. Pháp cùng Anh và Tây Ban Nha gửi quân sang xâm lược Mexico, ủng hộ bọn phản động và giáo sì, chống lại nước cộng hòa. Năm 1863, quân Pháp chiếm thủ đô Mêhicô lật đổ chế độ cộng hòa, đưa Maximilien lên làm vua bù nhìn. Nhưng nền quân chủ đó không tồn tại được bao lâu. Chủ tịch nước cộng hòa là Bênitô Hua, một người dân chủ tiểu tư sản, một chiến sĩ kiên cường, đã phát động quần chúng đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Nam 1867, quân Pháp phải rút khỏi Mexico, triều đại Maximilien sụp đổ nhanh chóng, bản thân y bị xử bản. Nước cộng hòa Mêhicô một lần nữa thoát khỏi cơn nguy biến. Sự phá sản của cuộc viễn chinh ở Mexico là một đòn nặng đánh vào uy tín của Đế chế II.
3. Sự phát triển của phong trào công nhân trong những năm 60
Tình trạng ngày càng bị bán cùng hóa làm cho công nhân Pháp rất bất mãn. Sau khi cách mạng 1848 thất bại, phong trào công nhân bị láng đi một thời gian. Những cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1857 và cuộc khủng bố của cảnh sát năm 1858 đã làm bùng lên một cao trào đấu tranh mới. Trong đợt bầu cử thường kì vào Viện lập pháp năm 1863, nhờ sự ủng hộ của công nhân, phe Cộng hòa đã giành được 2 triệu phiếu trong số 7,2 triệu. Một nhóm công nhân Pari công khai để cử người của mình và ra bản “Tuyên ngôn của 60 người”, chứng minh rằng giai cấp công nhân là một giai cấp độc lập, phải có đại biểu riêng trong nghị viện. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, chính phủ Napoleon III buộc phải ban hành một số cải cách nhỏ nhật nhằm xoa dịu và kìm hãm phong trào bằng cách lừa bịp về khả năng liên minh giữa công nhân và Chính phủ trong khi giải quyết các vấn đề xã hội. Năm 1862, một số công nhân ngành in bị bắt vì tội đình công được tha. Năm 1864, đạo luật Sapơliê ban hành từ cuối thế kỉ XVIII được bãi bỏ. Nam 1869, Chính phủ cho phép công nhân hội họp nhưng lại quy định không được thảo luận chính trị và phải có một nhân viên Chính phủ tham dự.
Sự kiện nổi bật nhất trong những năm 60 ở Pháp là sự thành lập các nhóm Đệ nhất quốc tế ở Pari và các thành phố khác. Công nhân Pháp đã đóng một vai trò tích cực trong việc liên hệ với các tổ chức Quốc tế ở các nước. Nhưng trong thời kì đấu, quyền lãnh đạo các chi nhánh Quốc tế ở Pháp thuộc về những người phải Pruđông
Bên cạnh phái Pruđông còn có phái Blangki, có thái độ cách mạng kiên quyết hơn nhưng đi theo chiến lược sai lầm có tính chất âm mưu, xa rời lí luận cách mạng và quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, trong thời gian đó, các nhóm Quốc tế thứ nhất ở Pháp. cùng đã phát huy vai trò quan trọng. Tháng 1567, một nhóm công nhân dưới sự lãnh đạo của thành viên Quốc tế đã tổ chức biểu tình phản đối việc gửi quân can thiệp vào cuộc đấu tranh thống nhất nước Ý. Năm 1868, Chính phủ mở hai cuộc xử án những người lãnh đạo Quốc tế ở Pari. Nhưng chính trong những phiên tòa này, bài diễn văn của người thợ đóng sách Vachanh đã gây ra một ấn tượng sâu sắc, chứa chan niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của giai cấp công nhân.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1866-1867 làm cho tình cảnh công nhân càng thêm trầm trọng và do đó, cuộc đấu tranh càng thêm mãnh liệt. Năm 1867, các cuộc đình công nổ ra ở Pari, Amiêng. Mácxây, Rube… Những năm sau, công nhân mỏ than vùng Loa, các nhà máy quân giới Cro Dô tiếp tục đình công đều bị quân đội đàn áp rất tàn khốc. Các tổ chức nghiệp đoàn ra đời, liên hệ chặt chẽ với chi nhánh của Quốc tế thứ nhất làm nòng cốt cho phong trào, ngày càng đe dọa đến sự tồn tại của chính quyền Đế chế
4. Các khuynh hướng cộng hòa đối lập và nguy cơ suy sụp của Đế chế II
Trong những năm 60, thái độ bất mãn của các tầng lớp tư sản và tiểu tư sản làm cho chính quyền đế chế càng làm vào tình trạng khủng hoảng Napôlêông III phải ban hành một số cải cách như bố một vài điều hạn chế tự do hội họp và tự do báo chí, mở rộng phần nào quyền hạn của Viện lập pháp và Viện nguyên lão, nhưng không thể kìm hãm được phong trào phản đối trong phải cộng hòa tư sản và tiểu tư sản.
Cảnh tả của phe cộng hòa tiểu tư sản tập hợp thành nhóm “Giacôbanh mới” tự coi nhiệm vụ của mình là tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng cuối thế kỉ XVIII, thực hiện những khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái. Họ đòi tự do báo chí, đòi thành lập nhà trường thể tục và thực hiện những cải cách dân chủ. Họ đại diện cho quyền lợi của tiểu tư sản và một phần trí thức tư sản cấp tiến. Những nhược điểm của họ là không dựa vào quần chúng thường nói nhiều mà ít làm việc thực tế, có thái độ tiêu cực đối với những yêu cầu của công nhân.
Cuộc đấu tranh chống chính phủ bùng nổ gay gắt qua việc bầu cử Viện lập pháp năm 1869. Phe cộng hòa đối lập chiếm được 3,3 triệu phiếu trong số 7 triệu. Những đại biểu nổi tiếng của phe này là Rösơpho và Gang Betta. Để tranh thủ quần chúng. Gambetta đưa ra một cương lĩnh chính trị cấp tiến (cương lĩnh Benvin) đòi tách giáo hội ra khỏi nhà nước, giải ngũ quân đội thường trực….
Tình hình chính trị ở Pháp ngày càng căng thẳng, nguy cơ sụp đổ của chế độ Napoleon ngày càng đến gần