Hội nghị hòa bình Vécxai
1. Hoàn cảnh triệu tập Hội nghị
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận đã họp Hội nghị hòa bình ở Vécxai(“) (ngoại vi thủ đô Pari của Pháp) để phân chia lại thế giới và thiết lập một trật tự hòa bình, an ninh mới sau chiến tranh.
Hội nghị khai mạc ngày 18-1-1919 và kéo dài suốt năm sau.
Hội nghị được tiến hành trong bối cảnh thế giới có nhiều biến chuyển to lớn.
Trước hết, đó là cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đã thắng lợi, chọc thủng khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, chiếm 1/6 diện tích trái đất. Chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống duy nhất trên thế giới nửa và một nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên đã xuất hiện trên thế giới. Cuộc Cách mạng tháng Mười đã ảnh hưởng sâu sắc đến cục diện toàn thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới và đe dọa sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề được đặt ra đối với giới cầm quyền các nước tư bản là làm sao tiêu diệt được nước Nga Xô viết để duy trì sự ổn định của chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, do hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất và ảnh hưởng sâu sắc của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, một cao trào cách mạng đã bùng nổ và phát triển mạnh mẽ trong những năm 1918 – 1923 ở hầu hết các nước tư bản lẫn các nước thuộc địa, phụ thuộc. Cũng vì thế, mục tiêu của giới cầm quyền các nước tư bản tham gia hội nghị Vécxai đều có một điểm chung là tìm cách đàn áp và chống lại cao trào cách mạng thế giới.
Thứ ba, chiến tranh đã tàn phá nghiêm trọng các nước tham chiến ở châu Âu và làm thay đổi căn bản tương quan lực lượng giữa các nước tư bản sau chiến tranh: ba nước đế quốc lớn Đức, Áo – Hung và Thổ Nhĩ Kỳ bị bại trận và suy sụp, tan rã; các nước thắng trận Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản cũng bị suy yếu nghiêm trọng, riêng nước Mĩ vì tham gia chiến tranh muộn, thu về 24 tỉ đôla trong việc buôn bán vũ khí nên đã vươn lên hàng đầu về kinh tế, tài chính và cũng có một tiềm năng quân sự đáng kể, vì thể trong hội nghị Vécxai, Mi là nước có tiếng nổi quan trọng nhất, là chủ nợ của các nước châu Âu.
Tham dự hội nghị gồm đại biểu của 27 nước thắng trận. Điều khiển hội nghị là 5 cường quốc Mĩ, Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản, nhưng thực sự nắm quyền quyết định hội nghị là 3 cường quốc Mĩ, Anh, Pháp mà những người đại diện là Tổng thống Mĩ- Uynxơn, Thủ tướng Anh-Lôi Giooc và Thủ tướng Pháp-Clêmăngxô.
Các cường quốc thắng trận đều có những ý đồ và tham vọng hết sức khác nhau trong việc phân chia, thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh, do đó Hội nghị Vécxai đã diễn ra hết sức gay go, quyết liệt.
Ngay sau khi cách mạng thắng lợi, sắc lệnh hòa bình và lời kêu gọi chấm dứt chiến tranh của chính phủ Xô viết đã có tiếng vang mạnh mẽ đối với nhân dân toàn thế giới đang chán ghét chiến tranh và mong muốn hòa bình. Điều đó làm cho giới cầm quyền các nước đế quốc tham chiến hết sức lúng túng. Ngày 5-1-1918, Thủ tướng Anh-Lôi Giooc đọc bài diễn văn khẳng định mục đích chiến tranh là tự vệ và để ra yêu cầu là giải phóng Bị, trả Andat-Loren cho Pháp, lập nước Ba Lan, cho người Xlavơ tự trị, cho những dân tộc không phải Thổ trong đế quốc Ottoman tự quyết, giải quyết vấn đề thuộc địa của Đức… Sau đó, ngày 8-1-1918, Tổng thống Mỹ-Uynxơn đưa ra Chương trình 14 điểm(1) nhằm lập lại hòa bình dưới hình thức một thông điệp gửi cho Quốc hội Mĩ. Chương trình 14 điểm của Uynxơn được che đậy bằng những lời lẽ bóng bẩy, bé ngoài để cao hòa bình, dân chủ, có vẻ thỏa mãn quyền lợi của nhân dân. Cũng vì thế ngày 11-11-1918, các bên tham chiến đã nhận đình chiến theo chủ trương của Mĩ và Chương trình 14 điểm của Uynxơn được coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghị Vécxai.
Pháp là nước đang cai hội nghị, có lực lượng quân sự (lục quân) mạnh nhất châu Âu hỏi đó. Chính sách của Pháp là làm suy yếu lâu dài nước Đức, bảo đảm an ninh cho Pháp nhằm thiết lập quyền hà chủ của Pháp ở lục địa châu Âu, đòi chuyển biên giới nước Đức đến tận sông Ranh, bất Đức bồi thường thật nhiều, hạn chế lực lượng của Đức đến mức tối đa, tán thành mở rộng lãnh thổ một số nước như Ba Lan, Tiệp Khắc, Xécbi, Rumani và muốn biến những nước này thành công cụ chính trị của Pháp ở Đông Âu để kiếm chế Đức và xây dựng các nước này thành “một vành đai vệ tinh’ chống chủ nghĩa bôn sê vích. Ngoài ra, Pháp còn nhòm ngó thuộc địa Đức ở châu Phi và một phần đất Tiểu Á của đế quốc Ottoman trước kia. Nhưng vì lực lượng bị suy yếu nhiều sau chiến tranh, kinh tế khó khăn, tài chính khủng hoảng, lại là con nợ của Anh lẫn Mĩ nên trong hội nghị Pháp phải nhận những biện pháp thỏa hiệp mà Pháp không muốn. Ngày 11-11-1919, Clémăng xô đã nhận định: “Chiến tranh ta đã thắng lợi rối. Giờ hòa bình, ta cũng phải tháng lợi, không chừng còn khó khăn hơn”.
Lập trường của Anh trong hội nghị Vécxai cũng xuất phát tự ý muốn làm yếu Đức về mặt hải quân, thủ tiêu hệ thống thuộc địa của Đức, đồng thời duy trì một nước Đức tương đối mạnh ở trung tâm châu Âu, dùng nó để chống lại phong trào cách mạng đang sôi sục ở các nước châu Âu và chống lại âm mưu làm bá chủ lục địa châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng ở châu Âu mà Mĩ rất ủng hộ. Ngoài ra, Anh còn muốn củng cố địa vị ở Trung Cận Đông, chiếm miền Trung Á của Nga Xô viết, xây dựng quyền thống trị của Anh trên các eo biển ở Biển Đen ở Iran và Afghanistan.
Các đế quốc Italia và Nhật Bản cũng đưa ra những tham vọng của họ. Nhật Bản không những muốn củng cố địa vị ở Trung Quốc mà còn định chiến cả vùng Viễn Đông của Liên Xô, mở rộng ảnh hưởng ra cả vùng châu Á – Thái Bình Dương. Italia muốn mở rộng lãnh thổ của mình xuống vùng Địa Trung Hải và vùng Bancăng. Các nước nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng yêu cầu mở rộng đất đai… Tóm lại, các nước chiến thắng đều tùy theo lực lượng và yêu cầu của mình muốn tổ chức lại thế giới sao cho phù hợp với quyền lợi của mình nhất, nhằm giành lấy những lợi lộc béo bỏ nhất. V.L.Lênin đã bình luận một cách châm biếm về Hội nghị Vécxai: “… Chúng đã cãi cọ nhau từ 5 tháng nay, chúng không còn kìm chế được mình và bấy thủ dữ đó cần cấu nhau loạn xạ đến nỗi chỉ còn lại cái đuôi
2. Hệ thống hòa ước Vecxai
Sau 3 lần có nguy cơ bị tan vỡ vì tranh cãi bất đồng, cuối cùng các cường quốc thắng trận đã cố gắng tìm cách thỏa hiệp với nhau và các văn kiện của Hội nghị Vécxai trước sau đều được kí kết, thường được gọi là Hệ thống hòa ước Vecxai
a) Hội Quốc liên
Quy ước thành lập Hội Quốc liên (kí ngày 25-1-1919) được sáp nhập vào hòa ước Vecxai với Đức và coi như đoạn mở đầu.
Quy ước thành lập Hội Quốc liên nêu rằng mục đích thành lập tổ chức này là nhằm “phát triển sự hợp tác, đảm bảo hòa bình và an ninh cho các dân tộc”, và để thực hiện mục đích “cao cả’ đó, người ta đã đề ra một số nguyên tắc như: không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế, v.v….
Về mặt tổ chức, Hội Quốc liên gồm những nước sáng lập, những nước kí vào Quy ước sáng lập, những nước hội viên được kết nạp nếu tán thành Quy ước và được 2/3 hội viên cũ đồng ý. Cơ quan lãnh đạo hội gồm 2 loại: cơ quan chung và cơ quan chuyên môn. Cơ quan chung có Đại hội đồng (gồm đại biểu của tất cả các nước hội viên, họp mỗi năm 1 lần vào tháng 9), một Hội đồng thường trực (gồm 5 ủy viên đại biểu các cường quốc và một số ủy viên có hạn kì do Đại hội đồng bầu, họp mỗi năm 3 lần) và một Bản thư ký thường trực như một nội các làm việc hành chính thường xuyên.
Cơ quan chuyên môn gồm có Tòa án quốc tế, thường trực ở Lahay và các cục quốc tế, trong đó có Cục Quốc tế lao động
Nội dung hoạt động do Hội đẻ ra là giám sát về việc tái giảm quân bị. tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị hiện thời, giải quyết những vấn đề tranh chấp quốc tế, tổ chức “việc quản trị đỡ đầu” cho những dân tộc mới được giải phóng mà chưa đủ điều kiện để tự quản lí” bằng hình thức “ủy nhiệm quyền” của Hội Quốc liên. Những quan hệ quốc tế trước trái với Quy ước đều bị hủy bỏ, trừ những liên minh địa phương có tính chất “tự vợ” (như chủ nghĩa Mơnrô của Mĩ). Nước nào vi phạm những điều khoản Quy ước của Hội, tự mình gây ra chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: trừng phạt bằng những biện pháp kinh tế và tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và bàng những biện pháp quân sự không bắt buộc.
Như vậy, Hội Quốc liên được thành lập (do sáng kiến của Uynxơn và được Anh – Pháp tán thành) trước hết nhằm giữ gìn trật tự của thế giới tư bản chủ nghĩa do các đế quốc chiến thắng xếp đặt lại trong Hội nghị Véc Xai năm 1919. Nó là kết quả của sự dung hòa các mâu thuẫn trong phe đế quốc chủ nghĩa về việc phân chia lại thế giới sau chiến tranh mà cụ thể là của 4 cường quốc có lực lượng mạnh nhất là Mĩ – Anh – Pháp – Nhật. Nó không ngăn chặn được chiến tranh và bảo vệ hòa bình vì chiến tranh không phải do ý muốn của một cá nhân hay một tập đoàn nào mà bất nguồn từ cơ cấu của nền kinh của chủ nghĩa đế quốc. Nó cũng không giải phóng các dân tộc mà chỉ duy trì ách thống trị thực dân cũ bằng những hình thức mới như “Ủy nhiệm quyền” hay ủy trị mà thôi. Những biện pháp về tái giảm quân bị và sự trừng phạt chỉ có tính chất hình thức, không thực tế vì quyền lợi của bọn đế quốc chằng chéo nhau, xung đột nhau và ngay cả nước Đức quân phiệt cũng không được giải giáp hoàn toàn.
Tóm lại, Hội Quốc liên chỉ là một công cụ của chủ nghĩa đế quốc nhằm dung hòa và bảo vệ những quyền lợi giữa bọn đế quốc với nhau, nhưng lại được che đậy bằng những danh từ đẹp đẻ, trang trọng
b) Hòa ước Vecxai với Đức
Ngày 28-6-1919, phái đoàn nước Đức do Muyle và Ban đại diện (thuộc Đảng Xã hội-dân chủ và Trung ương Công giáo) lại nhận hòa ước Vécxai. Hòa ước này xác định sự thất bại của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, gồm ba loại điều khoản chủ yếu về lãnh thổ, về đảm bảo an ninh và về bồi thường chiến tranh. Theo hòa ước này, Đức phải trả lại cho Pháp hai tỉnh Andat và Loren, nhường cho Bỉ khu Open và Mannơdi, cho Đan Mạch vùng Bắc Salétuýt, cho Ba Lan vùng Pôtxnani và một “hành lang” chạy ra biển. Thành phố Godanxeơ, hạt Xaro và đảo Hengôlan sẽ do Hội Quốc liên quản trị. Miền Đông Phổ lại tách khỏi nước Đức. Các thuộc địa của Đức sẽ trở thành đất “ủy trị” của Hội Quốc liền và giao cho các cường quốc khác quản lí. Một số vùng sẽ tổ chức trưng cầu ý dân để định đoạt số phận (như vùng Thượng Xilêdi, hạt Xard…).
Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức tối đa: chỉ được giữ lại 100.000 bộ binh với vũ khí thông thường, không có không quân và trong thực tế không có hải quân (chỉ có một hạm đội nhỏ). Vùng tả ngạn sông Ranh và 3 đầu cầu vùng hữu ngạn sẽ do quân đội Đóng minh đóng trong vòng lã năm và rút dần quân nếu Đức thi hành hòa ước. Vùng hữu ngạn thì trở thành khu phi quân sự, pháo đài, công sự của Đức và công nghiệp chiến tranh sẽ hủy bỏ. Nước Đức phải bồi thường chiến phí do một Ủy ban bối khoản của Đổng minh quy định trước ngày 1-5-1921, ngoài ra tàu của các nước Đồng minh được tự do đi lại trên sông đào Kien và các sông của Đức, hàng hóa Đồng minh được sử dụng đường xe lửa của Đức.
Với hòa ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gắn 1/2 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và rắn 1/7 diện tích trồng trọt. Tất nhiên giành nặng của hòa ước Vécxai không phải đè lên vai giai cấp hữu sản và bọn thống trị tư sản Đức mà chủ yếu là trút lên lưng những người lao động. Nó đặt nước Đức vào “cảnh nô lệ mà người ta chưa từng nghe thấy, chưa từng trông thấy” (Lênin). Nhưng hòa ước Vécxai không thủ tiêu được tiềm lực kinh tế chiến tranh của Đức. Được các đế quốc, nhất là Mĩ, giúp đỡ tận tình chỉ trong một thời gian ngắn sau chiến tranh, chủ nghĩa đế quốc Đức không những đã phục hồi mà còn tăng cường tiềm lực kinh tế chiến tranh của nó. Giai cấp tư bản lũng đoạn cầm quyền ở Mĩ muốn biến nước Đức thành một bàn đạp để xâm nhập châu Âu về kinh tế và để thực hiện mưu đồ chống lại Liên Xô về sau này.
c) Các hòa ước khác
Ngoài hòa ước Vécxai kí với Đức, những hòa ước khác cũng lần lượt được kí kết với các nước Đồng minh của Đức trong 2 năm 1919 – 1920, đó là hòa ước Xanh Giécmanh (kí với Áo ngày 10-9-1919), hòa ước Nơiy (kỉ với Bungari, ngày 27-11-1919), hòa ước Trianông (kỉ với Hunggari ngày 4-6-1920) và hòa ước Xevrơ (kí với Thổ Nhĩ Kì ngày 11-8-1920). Những hòa ước này chú trọng giải quyết vấn đề Áo – Hung và vấn đề Thổ Nhĩ Kì. Với hòa ước Xanh Giécmanh và Trianông, đế quốc Áo – Hung trước kia không còn nữa mà bị tách ra thành 2 nước nhỏ khác nhau: Áo chỉ còn 6 triệu dân là người Đức với 80.000 km nhưng không được sáp nhập vào Đức, Hunggari chỉ còn giữ được 1/3 lãnh thổ trước kia. Mỗi nước chỉ được quyền có khoảng 30.000 quân và phải bồi thường chiến phí. Trên đất đai của Áo – Hung cũ, những nước mới được thành lập là Tiệp Khắc và Nam Tư, còn một số đất đai khác thì cắt thêm cho Rumani (vùng Bucôvina của Áo và Toran Xinvania của Hung), cắt cho Italla vùng Torăngtanh và Ítxtria. Ba Lan cũng được thành lập với vùng Galixia thuộc Áo và các vùng đất khác thuộc Đức và Nga.
Với hòa ước Nơiy, lãnh thổ Bungari bị thu hẹp lại so với trước kia do phải cắt một số đất đai ở biên giới phía tây cho Nam Tư, cắt cho Hi Lạp vùng Thơrakia (do vậy mà Bungari mất đường ra biển Êgiê) và cát cho Rumani tỉnh Đôbrútgia. Ngoài ra, Bungari phải bồi thường chiến phi là 2,25tỉ phơrảng và phải nộp cho các nước láng giềng trong phe chiến thắng (Nam Tư. Hi Lạp và Rumani) 37.000 gia súc lớn và 33000 gia súc nhỏ.
Hòa ước Xeura với Thổ Nhĩ Kì, kí ngày 10-8-1920, quy định: Xin, Libàng, Palextin và Irác tách khỏi Thổ Nhi Kì và đạt dưới chế độ “ủy trị” của Hoi Quốc liên (trên thực tế là dưới quyền bảo hộ của Anh và Pháp). Ai Cập phải chịu sự “bảo hộ” của Anh. Bán đảo Aráp được quy định là “phạm vi thế lực” của nước Anh, phần đất thuộc châu Âu của Thổ Nhĩ Ki phải cắt cho Hi Lạp (trừ Ixtambun và vùng ngoại 6). Các eo biển của Thổ Nhi Ki được đặt dưới quyền kiểm soát của một ủy ban gồm đại biểu các nước Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản và tàu bè của các nước tham gia Hội Quốc liền có quyền đi lại ở đó. Điều đó không những tổn hại đến chủ quyền của Thổ Nhĩ Kì, mà còn tổn hại lợi ích của các nước ven bờ Biển Đen, nhất là nước Nga Xô viết.
Những hòa ước mà các nước thắng trận buộc các nước bại trận kí kết đều mang tính chất nô dịch. Lênin đã bình luận: “Đấy là một thứ hòa ước kỉ quái, một thứ hòa ước ăn cướp, nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đo có những người văn minh nhất, rơi vào tỉnh cảnh bị nô dịch. Đấy không phải là một hòa ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cấm dao, buộc một nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận.
Những hòa ước kí kết trên đây hợp thành hệ thống hòa ước Vécxai. Đô là văn bản chính thức đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ nhất xác định việc phân chia thế giới và tổ chức lại trật tự thế giới giữa bọn đế quốc thắng trận với nhau. Nó là kết quả của một quá trình vừa đấu tranh vừa thỏa hiệp, xâu xé lẫn nhau giữa các đế quốc chiến thắng và chiến bại.
Trên thực tế, hệ thống hòa ước Véexai không xoa bỏ được nguyên nhân cơ bản, sâu xa làm nổ ra chiến tranh thế giới (bởi nước Đức quân phiệt vẫn được các đế quốc Anh, Mĩ nuôi dưỡng bàng “viện trợ” và “đầu tư”), vì thế nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới mới do Đức gây ra vẫn còn tồn tại.
Hệ thống hòa ước Vécxai cũng không thỏa mãn các đế quốc thắng trận và càng phân chia nội bộ phe đế quốc thành những nước “bất mãn” cùng những nước “thỏa mãn” với hệ thống này.
Tóm lại, hệ thống hòa ước Véexai không đảm bảo hòa bình cho các dân tộc, trái lại làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc. Nguyên soái Phốc, nguyên tổng tư lệnh quân đội Đồng minh ở châu Âu đã nói: “Đây không phải là hòa bình. Đây là một cuộc hưu chiến trong 20 năm Uyliam Bulít, cộng tác viên đắc lực của Uynxơn, khẳng định rằng: “Hội nghị hòa bình chỉ làm được một việc là chuẩn bị những xung đột quốc tế. trong tương lai.